Trường Mở - Cộng Đồng Học Sinh Việt Nam

Tiêu đề: Hãy phát biểu cảm nghĩ về một bài thơ hoặc một nhà thơ yêu thích. [In trang]

Tác giả: penguin    Thời gian: 30-8-2011 22:09
Tiêu đề: Hãy phát biểu cảm nghĩ về một bài thơ hoặc một nhà thơ yêu thích.

Hãy phát biểu cảm nghĩ của anh (chị) về một bài thơ hoặc một nhà thơ mà anh chị yêu thích.

Bài viết 1




  Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải là một bài thơ trong trẻo, thiết tha. Nó là phần tinh tuý nhất của một con người luôn khát khao cống hiến, khát khao sống có ý nghĩa. Nó là tiếng lòng của nhà thơ và cũng là của tất cả những ai ham mê cái cuộc sống trần gian rất đẹp đẽ này.

Mùa xuân nho nhỏ
    ra đời khi nhà thơ đang nằm trên giường bệnh. Chắc hẳn, vào những ngày cuối cùng ấy, sau những chiêm nghiệm về cuộc sống với tất cả tình yêu, Thanh Hải muốn tiếp tục cất lên tiếng hót của “con chim chiền chiện” để góp nên một “mùa xuân nho nhỏ” cho cuộc đời, cho con người và cho đất nước yêu thương.
   Với thể thơ 5 chữ, với cách ngắt nhịp nhanh, gọn mà vẫn có độ dư ba, bài thơ đã dâng lên trong lòng tôi cảm giác rộn ràng, náo nức. Những gam màu trong trẻo, những hình ảnh đẹp, tươi sáng và đầy sức sống trong mỗi câu thơ cứ thấm dần vào trái tim tuổi trẻ của tôi.

   Mùa xuân của thiên nhiên, của đất nước được nhà thơ cảm nhận trong sự căng đầy của nhựa sống, trong nhịp sống đang hối hả và trong sự tươi non mơn mởn của những hi vọng vào tương lai. Giữa màu xanh yên bình của dòng sông xuân, sắc tím biếc cuả bông hoa không hề lạc lõng, chông chênh. Nó bám chắc vào lòng sông như một sợi dây vô hình làm nên sức sống. Trên cái nền màu dịu êm của “sông xanh” và “hoa tím biếc”, tiếng hót trong vắt của con chim chiền chiện vút cao, ngân vang đến bất tận đến trời xanh. Từng tiếng, từng tiếng chim trong veo hay tiếng nhịp thở của khí xuân hoà vào trời đất, vang vọng vào trong lòng người như những “giọt tâm hồn” sáng long lanh. Tiếng hót ấy khiến ta không thể dửng dưng mà khiến ta phải thốt lên tiếng gọi rủ về cái khát khao muốn nắm bắt, muốn “đưa tay hứng”.

   Không tách mình khỏi khí xuân của thiên nhiên, đất nước trong công cuộc chuyển mình đi lên cũng rộn ràng, hối hả. Sức sống của đất nước không chung chung, trừu tượng mà nó biểu hiện ra ở “sức xuân” của mỗi con người. Mùa xuân trên lưng lính, lộc xuân trong tay người nông dân. Mỗi bước đi của người gieo thêm một chồi biếc, một mầm non. Và cứ thế, sức xuân của đất nước lại dâng lên như những lớp sóng xôn xao. Đất nước phấn chấn, hứng khởi trong một nhịp thở mới, hối hả khẩn trương. Niềm tin mới của dân tộc được chắp cánh từ truyền thống bốn nghìn năm dựng nước. Thế nên, dẫu biết có những vất vả và gian lao nhưng cả nước “vẫn đi lên phía trước” với một quyết tâm không mệt mỏi.

   Những câu thơ của Thanh Hải đầy ắp hình ảnh, màu sắc và âm thanh. Nó tạo nên một không khí sôi nổi, háo hức, phơi phới vui tươi. Nó là một bức tranh tươi sáng sắc màu, là một bản nhạc rộn ràng tiết tấu trong trẻo, ngân nga và gợi cảm. Điều đặc biệt là: bức tranh thiên nhiên, bức tranh đất nước đầy sức sống ấy đã được nhà thơ cảm nhận khi ông đang ở vào cái giây khắc sắp lìa đời. Trên giường bệnh, nhà thơ vẫn mở rộng hồn mình, lắng nghe và đón nhận tất cả những thanh âm xao động của cuộc sống ngoài kia. Ông vẫn lắng nghe từng bước đi rất khẽ của đời. Bốn bức tường của phòng bệnh không thể ngăn cách cuộc đời với nhà thơ, những cơn đau của bệnh tật không làm giảm ý chí, bầu nhiệt huyết và niềm tha thiết yêu đời trong trái tim của người nghệ sĩ. Cái nghị lực phi thường ấy đáng để ta phải nâng niu và trân trọng xiết bao.

    Bài thơ khép lại trọn vẹn trong tâm hồn và sự say sưa của người đọc bằng một ước nguyện thật chân thành và mãnh liệt biết bao. Nó thực là một khát khao đang bùng cháy: muốn được làm một nhành hoa như bông hoa tím biếc kia, muốn làm con chim hót vang trời những giọt long lanh như con chim chiền chiện. Cái khát khao không hề gợi một chút gì về hình ảnh khổ đau của một con người đang chết. Nó giống cái mãnh liệt và rạo rực của một sức thanh xuân đang tràn trề nhựa sống và khát khao cống hiến cho đời.

   Nhiều người đã từng đồng ý với tôi rằng: những người trẻ tuổi đọc Mùa xuân nho nhỏ có thể tìm ra lý tưởng sống cho mình, còn với những người đã dâng cả tuổi thanh xuân cho đất nước thì vẫn thấy mình còn có thể làm được nhiều hơn. Mùa xuân nho nhỏ quả đã không chỉ là niềm say mê của riêng tôi. Nó xứng đáng là một bài thơ hay trong tủ sách quý của muôn người.



Tác giả: penguin    Thời gian: 30-8-2011 22:10
Bài viết 2

Có lẽ khi nhắc đến một trong những bài thơ mà em yêu thích thì không thể nào em lại quên được bài thơ “Đêm Thu” của nhà thơ Trần Đăng Khoa. Yêu “nó”, yêu luôn cả cái “thu” chất chứa trong đó. Không biết đã từ bao giờ cái chất “ấy” đã thắm sâu tận đáy tâm hồn của em…
“Thu về lành lạnh trời mây
Bỗng nhiên thức giấc nào hay mấy giờ.
Ánh trăng vừa thực vừa hư
Vườn sau gió nổi nghe như mưa rào.”

Bài thơ “Đêm Thu” có tất cả bốn câu thật ngắn, thật đơn sơ, nhưng nó cũng đầy những phong vị đặc sắc riêng của đêm thu. Quả đúng như vậy, ngay từ cái lần đầu tiên ta đọc đã để lại cho ta cái cảm giác mới lạ. Đó chính là cảm giác rất “thu” của tác giả nói chung và của đọc giả nói riêng. Từ dòng đầu tiên “nó” đã cho ta cảm nhận được cái thời tiết “lành lành trời mây” đặc trưng của mùa thu. Chính cái “lành lạnh” này đã làm ta một phần nào nhớ đến những ngày ta được mặc chiếc áo len rất model khi đến dịp này. Hay chính cái “lành lạnh” này làm cho giọng nói của ta thêm phần nào ấm áp, ngân nga và tâm hồn thêm nhạy cảm hơn… Không ngờ nhận xét của Trần Đăng Khoa lại tinh tế đến thế,ngay vào bài đã bật lên được một nét đặt biệt đó.

Đến đoạn thứ hai, cái mà mọi người hay gọi là “tự nhiên” lại khơi dậy lần nữa. Tại sao nhà thơ viết về thu lại không viết lá vàng rụng, bầu trời xanh hay những rặng liễu buông lệ… mà lại viết “…Bỗng nhiên thức giấc nào hay mấy giờ…”? “Nó” thật tình cờ, ý thơ trong câu này như đang hỏi, đang tâm sự và như đang cảm nhận cái “thu” khi đó. Trẻ thơ thường có những giấc ngủ say đắm và ngon lành, đâu có chợt nửa đêm mà thức giấc như thế này! Tuy nhiên, sự bất chợt ấy tuy có bất chợt mà nó lại độc đáo, khiến cho người đọc có thể một phần nào cảm nhận được cái bất ngờ trong đoạn 2 này. Chắc có lẽ từ khi nào mùa thu đã tác động vào cảm quan chú bé một cách khác thường hay là do tâm hồn của nhà thơ nhỏ tuổi đã từng bước đón nhận lấy điệu thu “lành lạnh” đầu mùa đang lan tỏa khắp không gian? Câu thơ này đã phần nào miêu tả được mối dây gắn bó mỏng manh mà mơ hồ, nhưng cũng rất sâu xa kì diệu giữa con người và thiên nhiên.

Sự cảm nhận cái se lạnh của đêm thu đã được Trần Đăng Khoa diễn tả thật hồn nhiên và cũng thật tinh tế. “Nó” mộc mạc, giản dị,nghe cứ rõ ràng như một lời nói thường, mà lại vẫn đầy khêu gơi, “nó” vẫn đúng là thơ, man mác một niềm thơ. Dường như câu hỏi “…nào hay mấy giờ…” của tác giả đã làm tăng thêm tính huyền ảo, làm nên cái man mác nói trên. Có lẽ đây cũng phần nào làm nên nét đặc sắc của bài: Khoa chỉ hồn nhiên, không tính toán gì khi lựa chọn câu thơ cho phù hợp. Nhưng đấy là vẻ hồn nhiên đã qua lắng đọng, là nét tác động rất thật lúc đã được tinh lọc qua tâm hồn người thi sĩ – không hề có dấu vết gọt giũa chữ nghĩa, chỉ thấy đâu đây vang vọng tiếng của lòng người thôi!

Bước qua đoạn 3 của bài thơ, tác giả có viết: “Ánh trăng vừa thực vừa hư…” Đến đây, tại sao tác giả lại nói “vừa thực, vừa hư”? Có lẽ đây là trăng khuyết chăng? Hay là trăng tròn? … Nhiều câu hỏi đặt ra cho 4 chữ “..vừa thực vừa hư..” trên. Lời văn thật bí ẩn kèm theo những hình ảnh chất chứa những nỗi niềm có thể làm cho tim ta rung động. Nhiều nhà thơ, nhà văn viết về ánh trăng… ví ánh trăng như mẹ, như người bạn … Còn nhà nhơ Trần Đăng Khoa thì không nói gì về vầng trăng mà chỉ nói “nó” vừa thực, vừa hư mà thôi. Khiến vầng trăng ở đây thêm sức quyến rũ và đặc sắc.

Câu thơ cuối, cái ý vị mung lung, mơ màng, cái không khí tĩnh lặng và cái cảm giác nữa thực nửa ảo bây không còn nữa. Gió giờ đây đã thổi, vả nổi mạnh, “nghe như mưa rào”. Từ diệu êm đã thành xáo động. Từ đây, thiên nhiên lúc chuyển mùa đã thức dậy trong tâm hồn tự lúc nào mà ta dường như chẳng hay chẳng biết. Trăng và gió đêm thu, bao người đã viết về nó – từ “Trái trăng thu chín mõm mòm” của Hồ Xuân Hương… - đến “gió no mà bay lên nguyệt kia” của Xuân Diệu – nhưng trong bài mảnh răng mơ hồ “ vừa thực vừa hư” khá mung lung huyền ảo và trận gió nổi “nổi” chứ không “thổi” chung chung – bạo liệt, phấn khích “nghe như mưa rào”. Ánh trăng ru êm và trận gió thức gọi – những cảm xúc phức tạp, đa dạng lúc chuyển mùa, làm phong phú thêm cuộc sống chúng ta.

Không hiểu sao lòng em lại yêu bài “Đêm Thu” này!?! Cứ mỗi lần đọc bài thơ thì lòng em lại cứ bồi hồi. Mỗi câu cứ làm cho lòng em thêm xao xuyến. Nó cứ nhẹ nhàng mà làm sống dậy trong mình cái cảm giác hòa nhập cùng thiên nhiên, vũ trụ. Một đêm thu huyền ảo, ngây ngất đồng thời gợi thức tất cả tâm hồn – một đêm thu rất “thu”!

Đọc xong bài thơ, chúng ta mới hiểu rằng cái hồn nhiên, dung dị, vừa gợi mở sâu sắc. Với cách dùng từ, ngôn ngữ rất vô tư, rất phong phú, rất thiên nhiên và rất “thu” của thơ Trần Đăng Khoa…
Tác giả: penguin    Thời gian: 30-8-2011 22:21
Nữ sĩ Xuân Quỳnh: Biết quên mình để làm vợ
Khánh By

Sau vụ tai nạn giao thông đặc biệt nghiêm trọng xảy ra năm 1988 tại đầu bờ bắc cầu Phú Lương, tỉnh Hải Dương làm cả gia đình Xuân Quỳnh – Lưu Quang Vũ ngồi trên ôtô Uoát tức tưởi ra đi, các báo, đài bắt đầu thường bình thơ hoặc phân tích truyện, kịch của anh chị. Vốn là người yêu thơ, tôi và thế hệ chúng tôi biết chị nhiều hơn, ấn tượng “Xuân Quỳnh” kể từ dạo đó.

Đến nay hết thảy chúng tôi đã trưởng thành, có dịp đọc Tuyển tập thơ của chị, rồi suy ngẫm, rồi chiêm nghiệm, tôi mới nhận ra rằng, chị Xuân Quỳnh là nhà thơ có lời yêu thương chồng đằm thắm và thơm thảo nhất. Tình cảm đó được thể hiện qua bài Hát ru chồng những đêm khó ngủ và bài Mẹ của anh. Nếu nói “hơn lên một tí”, riêng hai bài thơ trên, khi đọc lên, trước những lời thơ tha thiết, ***g lộng đức tính nhân văn, giàu tình hữu ái của con người với con người, tình của người vợ yêu thương chồng sao mà cao đẹp, đằm thắm thế! Lời chị ru sao mà mượt mà, ý nhị và tình cảm đến thế?! Đã từ lâu, nhiều khi nhớ đến, tôi thấy nỗi niềm cứ rưng rưng tự đáy lòng suy tưởng đến những ý tứ của những câu thơ:

Anh không ngủ được ư anh?
Để em mở quạt, quấn mành lên cho.
Lặng sao cái gió đầu hồ,
Ghét sao cái nắng đầu mùa đã ghê.

Vâng! Những ai ở miền Bắc mới cảm nhận được đầy đủ cái nắng hạ chói trang, oi bức đến mức nào. Nhất là trong thời kỳ bao cấp, đất nước đang có chiến tranh, sự thiếu thốn vật chất đã rồi, nhà cửa thì chật chội, đồ đạc tuềnh toàng. Sinh hoạt hằng ngày của gia đình đều bó hẹp trong khung hạn định đó. Đôi vợ chồng nào mới cưới, được cơ quan xếp cho căn phòng hạnh phúc độ 10-15m2 đã là “xôm” lắm, mừng quýnh như bắt được vàng. Chúng ta bây giờ nghĩ lại khó hình dung nổi khi mà trong khuôn khổ chật hẹp ấy, mọi thứ cho một gia đình người ta đều thu vén đủ. Vậy mà vẫn còn lối rộng đi lại, chỗ dựng xe đạp cà tàng, chỗ để đun nấu, còn khi ăn cơm thì tót trên giường rồi. Thế thì trong cái nắng đầu hè, cái phòng ở hẹp, cái quạt “con cóc” bé tẹo tuy quay tít đấy, làm sao có thể đủ làm mát được cho cả gian phòng?... Nên không bức bối sao được? Thử hình dung khi chị Xuân Quỳnh “mở quạt”, “vén mành” lên là như để trông chờ vu vơ một cơn gió thổi vào phòng, may ra làm dịu đi cái nắng nóng đầu mùa hạ trong căn phòng chật hẹp. Đó là tấm lòng nhân hậu của người vợ hiền muốn chồng được hạnh phúc sung sướng, được thiên nhiên ban tặng. Nhưng chưa được, chưa có, chị lại tỉ tê như cưng nựng:

… Ngủ đi em khép cửa phòng
Để em lên gác em trông xem nào.

Bây giờ thì trông cái gì đây. Phải chăng vẫn là trông hờ một cơn gió, cơn mưa thần kỳ đột ngột cho trời dịu lại để người chồng mà chị yêu, chị quý trọng đến hết lòng: “Em yêu anh, yêu anh như điên… và Em yêu anh cả khi chết đi rồi” ngủ cho ngon giấc?! Có thể lắm chứ! Trời miền Bắc mùa hè mỗi khi đứng gió, oi ả đến cực cùng rồi thường sau đó hay nổi giông mưa? Nhưng không, bấy giờ thì trời vẫn nóng. Người chồng vẫn trằn trọc, khó ngủ bởi những ưu tư, phiền muộn trăm chiều(?!). Như hiểu được nội tâm và xót thương chồng, thế là bằng chất thơ, chất giọng mát rợi tình chồng vợ chị lại vỗ về ru như lời khuyên nhủ:

Anh không ngủ được anh yêu?
Nghe chi cơn lũ đang chiều nước dâng?!
Ngày mai cây lúa lên đòng,
Lại xanh như đã từng không mất mùa…
… Khuya rồi anh hãy ngủ đi
Để em trở dậy em che bớt đèn.

Ôi! Cái nghĩa tao khang sao mà sâu đậm. Tình cảm ấy sao mà hạnh phúc. Sao mà đáng nâng niu, trân trọng! Nếu suy tưởng bằng ngôn ngữ điện ảnh qua lời thơ, chúng ta có thể hình dung ra từ nãy giờ chị Xuân Quỳnh như vẫn đang bên chồng để vỗ về… ru cho chồng ngủ, đang phe phẩy quạt nan, nhưng mà đức ông chồng vẫn còn trằn trọc, biết đâu còn làm nũng vợ? Từ sự thương yêu chồng đến vô bờ bến đó mà thành ra chị “ghét cái gió lặng yên, cái ánh đèn hắt sáng”, bởi tất cả đó là nguyên nhân làm cho người chồng mình yêu, mình quý trọng khó ngủ, không ngủ.

Thực tế cuộc sống cho chúng ta thấy, do không xác định đúng đắn được tình yêu, tình con người, hay nghĩa vợ tình chồng là thiêng liêng, cao quý nên không ít trường hợp những cặp vợ chồng, những gia đình mà người ta gọi là “tế bào của xã hội” còn có những thù tức, cá nhân ích kỷ để nảy sinh những mâu thuẫn trong nội bộ gia đình, gây ra án mạng, thương tích rất đáng tiếc… Hậu quả không chỉ gây ảnh hưởng nhân cách, thuần phong, đạo lý bị xuống cấp, đặc biệt nguy hiểm là từ những mâu thuẫn đó con người đã xâm hại, tổn thương đến sức khỏe, gây thiệt hại nặng nề nếp cuộc sống gia đình, mà còn ảnh hưởng đến lĩnh vực an toàn xã hội, trật tự trong cộng đồng dân cư.

Nhìn trên phương diện này mà liên tưởng, khi đọc những vần thơ ru chồng của chị Xuân Quỳnh, chúng ta thêm cảm nhận ra đúng nghĩa cuộc sống và hạnh phúc vợ chồng. Được biết chị là người từng trải và đã nếm vị đắng của tình yêu, hạnh phúc khi một lần đổ vỡ nên chị đã: “Qua cay đắng với buồn vui đã nhiều” (Thơ tình tôi viết), nhưng chị lại là người: “Em biết quên những chuyện đáng quên/ Em biết nhớ những điều em phải nhớ” là bởi: “Quá khứ đáng yêu, quá khứ đáng tôn thờ”?! (Có một thời như thế).

Dư luận lúc bấy giờ không phải ai cũng hiểu đúng về cuộc hôn nhân Xuân Quỳnh – Lưu Quang Vũ. Nhưng trong giới văn nghệ thì đánh giá rất cao trong những năm tháng họ ở bên nhau, Xuân Quỳnh tài hoa, xinh đẹp đã cùng các nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Vũ (kém chị 4 tuổi) thật sự sống rất hạnh phúc, họ hiểu nhau, cảm thông với nhau, sống trọn vì nhau, cho nhau sau những thiệt thòi, mất mát đã bừng lên trong lĩnh vực sáng tác. Chính vì lẽ đó, anh chị như được chắp cánh nên đã sáng tác rất khỏe và dẻo dai, làm giàu cho lĩnh vực văn học, nghệ thuật của nước nhà rất lớn bởi một khối lượng kịch và thơ, văn “đồ sộ” được ra đời trong thập niên trước của những năm 80 của thế kỷ trước.

Có người nói, thơ là muôn nỗi riêng chung của cảm xúc đa chiều khi lòng ta buồn lắng xuống hay rộn lên niềm vui sướng tột cùng. Nói như cố nhà thơ Tố Hữu thì: “Thơ là gan ruột”. Còn Vũ Quần Phương thì miêu tả thật buồn cười: “Thơ như mộc nhĩ khô”, khi ngâm nó sẽ “lượi” ra. Chị Xuân Quỳnh, nếu không có những phẩm chất đó thì làm sao chị có thể cho ra đời hàng loạt bài thơ viết về tình yêu đôi lứa đã tình tứ, sâu đậm chất nhân văn, triết lý tình yêu, tình con người; khi viết về tình cảm của người vợ đối với người chồng càng tỏa sáng tình yêu thương một cách chân thật, còn mãi với thời gian của bao thế hệ, trẻ già đều tâm đắc:

Chỉ có thuyền mới hiểu
Biển mênh mang nhường nào,
Chỉ có biển mới biết
Thuyền đi đâu, về đâu?!
( Thuyền và biển).

Với tôi, cái hay của Xuân Quỳnh – người vợ còn được thể hiện ở chỗ “yêu chồng nên thương mẹ chồng”, cho dù người đời vẫn còn định kiến: “Yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng” (ca dao). Trong bài Mẹ của anh thì dường như hoàn toàn không có ý tứ nào có sự phân biệt “nàng dâu – mẹ chồng”. Thành thực tôi thật sự hài lòng, đồng cảm với kiểu cách Xuân Quỳnh trong ý tứ ứng xử gia đình được thể hiện qua các bài thơ: Thơ viết cho mình và những người con gái khác, Bàn tay em… đặc biệt là trong quan niệm về mẹ chồng làm tôi rất cảm kích:

Phải đâu Mẹ của riêng anh,
Mẹ là Mẹ của chúng mình đấy thôi.
Mẹ tuy không đẻ không nuôi,
Mà em ơn Mẹ suốt đời chưa xong.

Đúng là thế đấy! Phải có mẹ chồng rồi mới có chồng mình chứ! Thiết nghĩ, người vợ nào cũng biết hành xử như lời thơ của chị Xuân Quỳnh thì thế giới “đức ông chồng” có làm đến hết đời cũng không trả được hết nghĩa nặng tình sâu của người vợ – người phụ nữ Việt Nam vốn được tôn vinh đảm đang, trung hậu, thủy chung lại biết yêu thương chồng nên quý mẹ. Nếu trên đời này, thế giới đàn ông – thế giới người chồng đều có được những người vợ biết quý trọng mẹ, yêu thương chồng con và mẹ chồng hết mực như thế thì còn gì sung sướng hơn như chị Xuân Quỳnh cắt nghĩa:

Chắt chiu từ những ngày xa
Mẹ sinh anh để bây giờ cho em.

Tiếc rằng, trong cuộc sống đương đại thường không bằng phẳng một chiều như vậy. Chị Xuân Quỳnh đã mạnh bạo không ngần ngại khi nói lên niềm tự hào của người vợ, người mẹ trong bài Thơ vui cho phái yếu:

Dẫu là nguyên thủ quốc gia hay là những anh hùng,
Là Bác học… hay là ai đi nữa,
Vẫn là con của một người phụ nữ…

Tại sao chị Xuân Quỳnh lại có được những tình yêu thương đằm thắm, thiết tha như vậy với chồng, với cả mẹ chồng mà không thấy có một sự cách ngăn nào trong các mối quan hệ đó?! Phải khẳng định rằng, để có được phẩm hạnh đó, chị Xuân Quỳnh đã có một cái tâm của người phụ nữ – nhà thơ, của người vợ hiền tôn thờ chồng với một đức tin của một ý thức hệ về tình yêu trong mối quan hệ vợ chồng nồng thắm và mãnh liệt, nếu không dám nói là cực độ:

Em yêu anh, yêu anh như điên,
Em viết những bài thơ tình yêu tưởng anh là ý, tứ?
(Thơ viết cho mình).

Nhưng rồi chị cũng thấy sự việc đó nó cũng đơn giản, gọn nhẹ mà sâu lắng tận đáy lòng nên có lúc chị đã cất cao tiếng hát về mình:

Em trở về đúng nghĩa trái tim em,
Là máu thịt đời thường ai chả có?
Vẫn ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa,
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi.
(Tự hát).

Trên thế gian này nếu tất cả “Thế giới phụ nữ – thế giới người vợ” đều có được cốt cách của cái tâm đúng nghĩa với chồng, với con, với gia đình; có đầy đủ những tố chất và phẩm hạnh tốt đẹp của người vợ, người phụ nữ như đức Khổng Tử răn dạy thì cuộc đời này sẽ còn càng thêm ý nghĩa và yêu dấu biết nhường nào?! Và như thế, về mặt trật tự an toàn xã hội, trật tự cộng đồng, trật tự gia đình sẽ hoàn tất không phải là vấn đề đáng lo ngại mà hậu quả phức tạp đáng tiếc lại bắt nguồn từ những người phụ nữ, những người vợ.

Và, điều nữa tôi cũng nghiệm ra rằng, cũng nếu đúng như lời cụ Nguyễn Du nói về Tài – Mệnh ở trên đời này nếu có, thì âu đó là điềm gở đáng tiếc đã ứng vào chị Xuân Quỳnh – Nhà thơ tình đa tài, đa cảm, đa đoan với cuộc sống, yêu thương con người, yêu thương chồng con đằm thắm nhất nhưng vắn số
Tác giả: hello12345    Thời gian: 1-9-2011 10:05
bai anh viet hay nhung co vai cho em chua hieu , anh giai thich giup em
Tác giả: phuonghoang92    Thời gian: 1-9-2011 10:12
hello12345 gửi lúc 1-9-2011 10:05
bai anh viet hay nhung co vai cho em chua hieu , anh giai thich giup em

Bạn không hiểu chỗ nào thế?

Tác giả: hello12345    Thời gian: 4-9-2011 08:32
nhung cho viet tat:o:o:o:o:o:o:o
Tác giả: hello12345    Thời gian: 4-9-2011 08:34
bai viet cua anh hay qua,hihi
Tác giả: phuonganhanhanh    Thời gian: 22-12-2011 19:20
may lam ngu the



phuonganhanhanh trong 22-12-2011 19:20 đã trả lời thêm:
;P;P ngu
:Q:Q:Q


phuonganhanhanh trong 22-12-2011 19:21 đã trả lời thêm:
;P;P;P;P;P
Tác giả: mâinhkute    Thời gian: 27-12-2011 13:18
:$:lol...
Tác giả: haohao9/5    Thời gian: 8-3-2012 13:31
cung~ kha hay....

Tác giả: soulstealer    Thời gian: 11-9-2012 20:47
{:5:}{:14:}{:14:}{:4:}
Tác giả: Dung.Ban.Tay.To    Thời gian: 11-9-2012 22:33
Hãy cùng phân tích bài thơ "Gửi lời tự do" của tác giả Tô Ban Tây

"Cánh chim cợt nhả cuối chân trời
Tự do bay lượn khắp nơi nơi
Kìa đôi chim én cho anh gửi
Một chút tình thơ, chút sự đời."


Ngày nay, cuộc sống ngày càng đi lên, đồng nghĩa với việc có thêm bộn bề những lo toan, những mệt mỏi, những việc không tên làm con người ta cảm thấy căng thẳng. Ai cũng muốn có được một cuộc sống hạnh phúc với gia đình, làm những điều mình thích, tận hưởng những gì mình có. Nhà thơ Tô Ban Tây đã diễn tả rất sâu sắc tâm trạng này trong bài thơ "Gửi lời tự do" do anh sáng tác trong một đêm mưa rả rích.


Bài thơ được mở đầu bằng hai câu:

Cánh chim cợt nhả cuối chân trời
Tự do bay lượn khắp nơi nơi

Hình ảnh cánh chim cho ta thấy sự tự do tự tại, phiêu du khắp chân trời góc bể. Mỗi khi nhắc đến hình ảnh cánh chim, ta dễ dàng nhận thấy sự nhẹ nhàng bay bổng, tâm hồn con người cũng như cánh chim vậy, sẽ bay bổng nếu không ai, không việc gì trói buộc lại. Chim có thể bay đến mọi nơi mọi chốn, hòa mình vào thiên nhiên, vào đất trời. Có chăng những chú chim bồ câu lại tượng trưng cho sự tự do, chú chim chích chòe cho sự hoạt bát năng động. Con người vốn cũng rất yêu chim...

"Kìa đôi chim én cho anh gửi
Một chút tình thơ, chút sự đời"

Những ai đã từng xem qua chuyện Cao Lỗ và Lược Duyên mới thấy được chú chim én bé nhỏ được gửi gắm tình cảm như thế nào. Cao Lỗ là người miền núi cao, quanh năm bầu bạn với rừng núi, muông thú, ít khi tiếp xúc với con người, đặc biệt là con gái. Lược Duyên là cô gái phong trần ở kinh đô vừa về quê, nơi miền quê quả không hợp với tính cô. Cô tính tình ham chơi, lười việc, suốt ngày chỉ giỏi phá phách. Một hôm ra đường, cô chơi đuổi bắt với gia nhân, không may Cao Lỗ đi ngang mà chạm phải. Cao Lỗ hôm đấy bị gia nhân của Lược Duyên đánh một trận nhừ đòn. Không rõ thế nào, từ hôm đấy Cao Lỗ đem lòng yêu nàng, ngày đêm đều nghĩ đến nàng. Đến nỗi chim đậu lên đầu mà làm tổ cũng chẳng để ý.
Một hôm chú chim sẻ trên đầu Cao Lỗ không may trượt té bị anh bắt gặp, anh ôm lấy con chim mà than thở đủ điều. Hồi lâu sau anh quyết định nhờ chú chim én nhỏ gửi một bức thư cho Lược Duyên...
Chim đến nhà Lược Duyên thì xấu số, bị nàng bắn hạ đem chiên dầu. Trong lúc đang thưởng thức, nàng cắn phải một thứ gì đó, lấy ra thì thấy một lá thư bằng da trong bụng con chim. Thư viết thế này:

"Chú chim nhỏ mang bao niềm thương nhớ
Gửi đến em và một chút mộng mơ
- Cao Lỗ -"

Nàng đọc xong quả thực xúc động, tay run run, mắt rớm nước, liền quẳng lá thư đi, như chưa từng có gì xảy ra.

Nói về Cao Lỗ, ngày đêm mong tin lại không thấy chim về cảm thấy vô cùng sốt ruột và lo lắng. 20 ngày trôi qua, chàng trở nên tuyệt vọng, nét ưu sầu hằn rõ lên khuôn mặt gầy guộc của chàng. Trước khi kiệt sức qua thế giới bên kia, chàng có thốt lên rằng:

"Chút hồn gửi lại cho ai
Bây giờ vĩnh biệt, chưa phai cuộc tình"

Từ đó điển tích Cao Lỗ - Lược Duyên gắn liền với chú chim én thể hiện sự tiếc nuối trong tình duyên, tiếc thương cho số phận bọt bèo. Đôi chim thì có bạn có bè, chú chim thì quá lẻ loi, tác giả trong phút giây buồn tủi cho số phận, cho tình duyên của chính mình đã gửi gắm cho đôi chim nhỏ, hy vọng được phút giây thoải mái, bình yên tựa cánh chim.

Bài thơ cho ta thấy sự mộc mạc trong tâm hồn, khát vọng thoát khỏi cuộc sống chán chường, hy vọng đến tương lai tươi sáng hơn. Mỗi ý thơ mỗi vần thơ đều đặc tả vẻ đẹp tâm hồn tác giả, hướng đến sự mộc mạc, chân thành, yêu thiên nhiên. Bài thơ được đánh giá cao trong liên hoan thơ ca miền nam năm 2012, chứng tỏ sự sâu sắc, rung động tới độc giả, toát lên cái hay cái đẹp của thơ ca.

{:9:}{:9:}{:9:}{:9:}{:9:}{:9:}{:9:}{:9:}{:9:}
Tác giả: nhoct1hon    Thời gian: 13-9-2012 19:00
thank bài hay{:1:}{:1:}{:1:}{:1:}{:1:}{:1:}
Tác giả: dnaghoangloc    Thời gian: 14-9-2012 09:12
cach lam sao moi dc chu!
ghj nhu the thj ai hieu dc
can cạ dan y thụ mak kiem mun chit ak`!
nan ghe hjx
{:4:}{:4:}{:4:}{:4:}{:4:}{:4:}{:4:}{:4:}{:4:}{:4:}{:4:}{:4:}{:4:}{:4:}{:4:}{:4:}{:4:}{:4:}
mak viet thj viet ngan ngan cung~ dc oy`!
may anh chj vit chj nhieu j
nhieu mak` k hay cung~ cha co diem
thuong` thj` e viet it nhung toaøn dc diem cao hjhj!
{:12:}{:12:}{:12:}{:12:}{:12:}{:12:}{:12:}{:12:}{:12:}{:12:}






Chào mừng ghé thăm Trường Mở - Cộng Đồng Học Sinh Việt Nam (https://truongmo.com/) Powered by Discuz! X3.2