Advertisements
Download: http://www.mediafire.com/?ea86m6c56o72i4f
PHONGTTRÀO ĐÔNG DU (1905 - 1908)
Hiện tượng Đông Du đầu thế kỷ trước mãi còn vang vọng trong đời sống hiện tại.Chính bởi vị trí và ý nghĩa to lớn như vậy, trong suốt những năm qua Đông Duluôn là mối quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam và nước ngoài. Những vấnđề mang tính thời sự của Đông Du như là việc tôn tạo, bảo quản các di sản vậtthể và phi vật thể của phong trào sẽ tiếp tục được chú ý.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thất bại hoàn toàn của cuộc khởi nghĩa Hương Khê (Hà Tĩnh) năm 1896, đồng thờiđánh dấu sự chấm dứt vai trò phong trào Cần Vương do vua Hàm Nghi và Tôn ThấtThuyết khởi xướng đứng đầu. Việt Nam biến thành một nước bị đô hộ, chia cắt,một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, có đổi mới nhưng không thực sự tiến bộ vàcởi mở. Cuộc khai thác thuộc địa quy mô của thực dân Pháp cuối XIX - đầu XX,làm cho cuộc sống nhân dân ta tăm tối, rơi vào vòng lệ thuộc. Và ở cái buổi mà“trên sân khấu xã hội Việt Nam lúc bấy giờ vai trò phong kiến càng lu mờ mà vaitrò tư sản, tiểu tư sản mới nảy mầm đang non chưa đủ sức để mở màn và vọt rađược”[7; tr.38]. Một số nhà ái quốc nước ta đã phải đi tìm lấy cuộc sống ẩn dậtchờ thời. Có kẻ quay lại hợp tác với bọn xâm lược, hay xem việc lớn đã qua,mang tâm trạng bi quan, bế tắc. Tuy thế, không ít sĩ phu vẫn một lòng sắt sonvới sự nghiệp cứu dân, cứu nước, họ là những tri thức tư sản hóa, đêm ngày trăntrở đi tìm con đường cứu nước và phát triển xã hội. Đây chính là động cơ đặcbiệt giúp các sĩ phu yêu nước đầu thế kỷ XX nhanh chóng đón nhận, tiếp xúc vàchịu ảnh hưởng của “Tân thư”, “Tân văn” với những tư tưởng khuynh hướng tiến bộtừ bên ngoài dội vào. Thông qua Tân thư, Tân văn (từ sách vở Trung Quốc), nhữngtư tưởng dân chủ tư sản phương Tây của Vônte, Rútxô, Môngtétxkiơ được giớithiệu với các sĩ phu Việt Nam, giúp họ khắc phục nhanh chóng sự luyến tiếc chếđộ phong kiến, cung cấp cho họ nhiều kiến thức mới về tư tưởng chính trị vàtruyền cho họ ngọn lửa nhiệt tình cách mạng. Không chỉ riêng Việt Nam mà cảchâu Á xuất hiện phong trào “châu Á bừng tỉnh”. Lúc này, bất luận là cách mạngBa Tư (I – Ran), Thổ Nhĩ Kỳ, Trung Quốc hay là cuộc đấu tranh chống Anh của ẤnĐộ do TiLak lãnh đạo đều mang tính quần chúng rộng rãi để thêm vào cho nó mộttính chất mới – tính chất tư sản. Điều đặc biệt đáng nói ở đây là sự vùng lên củaphong trào “châu Á bừng tỉnh” đều có bóng dáng ảnh hưởng ít nhiều từ phong tràoMinh Trị Duy Tân (1868). Thành công của nước Nhật trên con đường cải cách vàcông nghiệp hóa sau Minh Trị Duy tân, rồi chiến thắng của người Nhật trong cuộcchiến tranh Nga - Nhật (1904 - 1905), đã cổ vũ các dân tộc phương Đông về khảnăng khắc phục tình trạng lạc hậu và khả năng phục hưng của mỗi nước. Phan BộiChâu và một số sĩ phu cấp tiến Việt Nam mở đường Đông Du bởi sự thôi thúc vàhấp dẫn của tấm gương phục hưng tự cường từ nước “đồng chủng, đồng văn” này.
II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. Khái quát phong trào Đông Du (1)
Tháng 1 năm 1905, lần đầu tiên một số sĩ phu Việt Nam do Phan Bội Châu đứng đầusang Nhật. Từ lời giới thiệu của Lương Khải Siêu, sĩ phu Việt Nam đến gặp ĐạiÔi bá tước và Khuyển Dượng Nghị là những lãnh tụ dân Đảng Nhật, một đảng cónhiều thế lực ở Nhật lúc bấy giờ. Họ không giúp Việt Nam quân sự, chỉ hứa lấydanh nghĩa dân Đảng Nhật, có thể giúp học sinh Việt Nam ăn học. Từ năm 1906,phong trào Đông Du đi vào hoạt động ngày càng rầm rộ trên cả ba miền đất nước,hàng loạt các tác phẩm của Phan Bội Châu được dịch từ chữ Hán ra chữ Quốc ngữ,gửi về nước. Từ năm 1907 sang năm 1908 là thời kỳ phong trào Đông Du phát triểnmạnh nhất với trên 200 lưu học sinh.
Chương trình học tập ở đây khá đa dạng, sáng và trưa dạy tiếng Nhật, “học trithức phổ thông”, buổi chiều dạy “tri thức quân sự”, đặc biệt là “tập luyện thaotác quân sự”. Khi học sinh Việt Nam vào học trong các trường của Nhật Bản, thìchương trình, quy tắc học ở trường đều do người Nhật quy định, còn ngoài trườngđều do ta tự quản lí. Phan và các đồng chí của ông đã lập ra Hội Việt Nam CôngHiến (tháng 10 năm 1907) có chương trình riêng. Phan Bội Châu làm Tổng lý kiêmGiám đốc và Kỳ ngoại hầu Cường Để làm chủ tịch hội. Dưới quyền hành chung củaBan lãnh đạo, Hội được chia ra thành 4 Bộ, mỗi Bộ đảm nhiệm từng mặt hoạt độngcủa lưu học sinh. Các ủy viên của Bộ kinh tế đóng vai trò quan trọng trong việcthu vào, chi ra và các việc trù bị. Đồng thời họ cũng là những người giỏi vậnđộng, tranh thủ sự giúp đỡ cả trong và ngoài nước. Việt Nam Công Hiến rất chútrọng tổ chức những buổi “sinh hoạt chính trị” giúp học sinh rèn luyện tưtưởng, đạo đức cách mạng. Tại các chương trình nghị sự, có mặt đông đủ học viênthì Hội trưởng và Tổng lý huấn thị trước như khuyến cáo các vấn đề có liên quanđến sinh hoạt, học tập, có khi bình giảng nội dung một cuốn sách, nhắc nhởnhiệm vụ của các thành viên trước Tổ quốc. Sau đó, mọi người tự do trao đổi,góp ý các vấn đề đặt ra, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Hệ thống tổ chức bố trínhân sự và điều hành hoạt động ở đây tựa như một “Chính phủ lâm thời” mà chínhlời Phan Bội Châu bộc bạch: “Tôi nghiễm nhiên như một quan Công sứ của nước Namở nước ngoài mà lại kiêm cả chức Đốc kinh lý nữa. Giếng sâu tay ngắn, việc lớntài hèn, tôi vẫn lo sợ công việc tôi gánh vác không kham. Đồng thời chúng tôidựng lên Tân Việt Nam Công Hiến bắt chước như một Chính phủ lâm thời của nướcNam ở hải ngoại. Tuy là cách thức sắp đặt còn sơ sài nhưng có ảnh hưởng tới dânkhí trong nước mau lắm” [2, tr.179].
Cũng chính vào lúc này, thực dân Pháp đã tìm ra nhiều manh mối của phong trào,chúng câu kết với Nhật để xúc tiến đàn áp. Tháng 9 năm 1908, khi các học sinhTrường Chấn Võ đang làm lễ tốt nghiệp thì Bộ Nội vụ Nhật hạ lệnh giải tán tổchức học sinh Việt Nam, tịch thu các văn kiện, đuổi học sinh ra ngoài nướcNhật. Tháng 2 năm 1909, Phan Bội Châu, Cường Để cũng bị trục xuất khỏi nướcNhật. Phan và các đồng chí của Cụ phải về lẫn trốn ở Trung Quốc rồi qua Xiêm hoạtđộng một thời gian chờ đợi những cơ hội mới.
2. Phong trào Đông Du – hiện tượng lịch sử điển hình
Hiện tượng lịch sử chính là sự kiện phản ánh những nét đặc trưng tiêu biểu chomột thời kỳ hay một giai đoạn lịch sử nhất định có thể kéo dài (về thời gian),lan rộng (không gian lịch sử), mang tính chất điển hình. Và vào những năm đầucủa thế kỷ XX, một hiện tượng lịch sử với đầy đủ những đặc trưng của nó đã xuấthiện ở Việt Nam, đó chính là phong trào Đông Du yêu nước, tìm đường cứu nướcphát triển tự cường do Phan Bội Châu cùng các đồng chí của ông - những nhà tríthức yêu nước thức thời, khởi xướng và thực hiện. Có thể khẳng định, Đông Du làhoạt động đầu tiên chống chủ nghĩa thực dân trên nền tảng duy tân, đổi mới (2).Đây là một cuộc “đổi mới” về tư duy yêu nước và cứu nước, từ tư duy yêu nước,cứu nước truyền thống là bạo động, là cầm vũ khí đánh đuổi bè lũ cướp nước đểkhôi phục độc lập dân tộc đã chuyển sang tư duy cải cách, đổi mới, đề cao việchọc tập tiến bộ. Đối với những sĩ phu “tân tiến” đầu thế kỷ XX, trước nhữngbiến đổi của Việt Nam về các mặt kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục do chínhsách thuộc địa gây ra, họ nhận thấy rằng bạo động cứu nước theo con đường CầnVương đã phá sản, giờ đây cần đi theo con đường cứu nước mới, cần duy tân đất nước,“khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”.
Xuất dương cầu học là một quyết định mang tính đột phá, thay đổi hướng đi vàphương pháp đấu tranh, mở cửa hướng ra bên ngoài để học hỏi, tiếp nhận nhữngcái mới cho phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Phan Bội Châu, chính làcon người với hoài bão cách tân, đứng trước bế tắc của lịch sử dân tộc đã cốgắng đi tìm lời giải đáp: tự cường để cứu nước. Xuất phát điểm của Phan chínhlà lòng yêu nước, thương dân - nền tảng cách tân vĩ đại đưa ông suốt cuộc đờiphấn đấu cho sự nghiệp cách mạng. Tư tưởng Đông Du vì thế có xuất phát điểm từmục đích cứu nước, cho nên xét về bản chất chủ trương “vọng ngoại” của Phan BộiChâu cũng là một hình thức thể hiện của chủ nghĩa yêu nước chân chính và của tưtưởng duy tân tự cường.
Mục tiêu của phong trào là muốn tìm một thế lực mạnh bên ngoài có thể giúp ViệtNam chống lại Pháp để giành và giữ lấy độc lập sau đó phát triển đất nước giàumạnh. Thế nhưng, khi chủ trương Đông Du cầu viện quân sự không được thực hiệnthì các sĩ phu đã nhanh chóng chuyển thành phong trào Đông Du cầu học. Đây làmột sự chuyển đổi hợp lý, có sức thuyết phục và có thể chuyển thành một phongtrào yêu nước sẽ được nhiều người hưởng ứng. Phong trào đã nhen lửa cho sự thứctỉnh của dân tộc Việt Nam sau này. So với phong trào Duy Tân ở Nhật Bản, chúngta nhận thấy con đường canh tân ở Việt Nam có cả những điểm tương đồng và dịbiệt. Điều cần nhận biết là cả hai nước đều nhận thức được tầm quan trọng củaviệc học tập khoa học kỹ thuật từ bên ngoài. Ở Nhật có phong trào Hà Lan họcthì ở Việt Nam có trào lưu đổi mới canh tân đất nước của Nguyễn Trường Tộ,Nguyễn Lộ Trạch… cuối thế kỷ XIX và phong trào Đông Du, Duy Tân đầu thế kỷ XX.Chỉ có điều phong trào Duy Tân ở Nhật Bản được tiến hành sau khi đã xóa bỏ sựtồn tại của chính quyền phong kiến Mạc Phủ, còn phong trào Duy Tân ở Việt Namđược thực thi trong điều kiện chế độ phong kiến đang còn tồn tại và đất nướcđang nằm dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Kết quả khác nhau là điều dễhiểu, tuy vậy sự thức tỉnh ở Việt Nam vẫn xứng đáng được coi là một tia sángtrên bầu trời ảm đạm của phương Đông, báo hiệu cho những chuyển biến mạnh mẽtrong thời gian tới.
3. Vị trí, ý nghĩa của phong trào Đông Du trong lịch sử dân tộc.
Người ta vẫn thường nhắc đến kết cục không mấy trôi chảy của phong trào ĐôngDu, nhưng hãy dừng lại ở chính phong trào để thấy rằng cần phải đặt nó vào hạngmục các công việc chuẩn bị đầu tiên cho một công chuyện hay cho một sự nghiệpnhư sự nghiệp giải phóng dân tộc. Không nên coi phong trào đó như là kết quảcủa sự nghiệp giải phóng dân tộc, để rồi đồng nghĩa sự thất bại hay chưa thànhcông của Đông Du như là sự thất bại của sự nghiệp giải phóng dân tộc. Sự thực,hiện tượng Đông Du trên đất Nhật Bản đầu thế kỷ XX đã tác động, ảnh hưởng sâusắc đến đời sống tư tưởng và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam tạo nênbầu không khí cách mạng sôi nổi khắp ba miền Bắc – Trung – Nam, thông qua hoạtđộng của phong trào đã hình thành một “nguồn lực” quan trọng, làm phong phú“nội lực” cho quê hương đất nước, tạo tiền đề khả năng “phát huy nội lực” trongtương lai không xa. Không chỉ là một phong trào xuất dương cầu học đơn thuần,đây còn là một phong trào chính trị, cách mạng, là một trường rèn luyện cáchmạng cho thanh niên Việt Nam. Thực tế lịch sử cho thấy, phong trào đã đào tạođược một số cán bộ cách mạng cung cấp cho phong trào yêu nước ở Việt Nam trongkỷ XX như Đặng Tử Mẫn, Lương Lập Nham (tức Lương Ngọc Quyến), Lương Nhị Khanh,Hoàng Trọng Mậu, Trần Hữu Lực… và nhiều gương mặt thanh niên ưu tú khác.
Đông Du mang dáng dấp của một cuộc vận động cải cách văn hóa, giáo dục đầu tiêncủa Việt Nam vào đầu thế kỷ XX, tạo tiền đề quan trọng cho sự nghiệp “Khai dântrí, chấn dân khí, hậu dân sinh” tiến đến đấu tranh giành lại độc lập, chủquyền quốc gia – dân tộc, đem lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Các chí sĩĐông Du khi sang Nhật, họ được học văn hóa (tiếng Nhật, tiếng Anh, văn học,toán, lý, hóa, sử, địa…), học quân sự ở các trường tiểu học, trung học, caođẳng. Với chương trình học tập như vậy, họ được trang bị chìa khóa “mở tríkhôn”, để trở thành các chí sĩ cách mạng có trình độ học vấn vượt qua sự dốtnát, lạc hậu. Do đó Đông Du đã góp phần vào việc thức tỉnh dân tộc, góp phầnlàm phá sản chính sách ngu dân của thực dân Pháp. Đông Du cùng những hoạt độngsôi nổi, những tác phẩm tràn đầy nhiệt huyết của Phan Bội Châu kết hợp vớiphong trào Duy tân, Đông Kinh nghĩa thục ở trong nước thực sự đã làm thức tỉnhnhân dân cả nước, tạo ra những chuyển biến mới trong nhận thức tư tưởng và hìnhthái đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam chuyển hướng mạnh mẽ từhệ tư tưởng phong kiến sang tư tưởng dân chủ và làm dấy lên sức mạnh tiềm tàngcủa dân tộc theo xu hướng tư tưởng tiến bộ của thời đại lúc bấy giờ. Như vậy,tầm nhìn của phong trào Đông Du rất xa và rộng, chỉ có điều hoàn cảnh chính trị- xã hội đương thời không cho phép phong trào đến cái đích thành công. Hoạtđộng của phong trào và sự nghiệp cũng như hoài bão của các sĩ phu yêu nước đãgióng lên một hồi kèn vang vọng, mãi thúc dục những ai là người Việt yêu nướcmuốn canh tân đất Việt thân thương không chỉ trong thời gian đó mà cả hôm naycùng mai sau.
Hiện tượng Đông Du vừa là bước ngoặt của phong trào dân tộc Việt Nam, vừa làkhởi điểm đầu tiên khá sâu đậm của sự tiếp xúc giao lưu giữa hai dân tộc Nhật -Việt trong lịch sử cận, hiện đại. Đặt trong bối cảnh lịch sử xã hội đương thờicách đây một thế kỷ quả là sớm. Đúng như nhà nghiên cứu Chương Thâu nhận định“Phan Bội Châu qua phong trào Đông Du cầu học, đáng được tôn vinh nhà cách mạngcó tư tưởng liên minh quốc tế sớm nhất trong qúa trình đi tìm đường cứu nước”[9; tr.535]. Mặc dù về phía quan phương chính thống của chính phủ Nhật Bản thìkhông thể trực tiếp giúp đỡ (công khai) cho phong trào Đông Du, nhưng tình cảm“đồng văn, đồng chủng, đồng châu” vẫn được đồng cảm và phát triển, đặc biệt cácnhân sĩ, tri thức tiến bộ và nhân dân Nhật Bản vẫn cưu mang, hào hiệp, giúp đỡnhiệt tình cho phong trào. Trải qua thăng trầm lịch sử, năm 1973 hai nước Việt- Nhật chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Từ đó đến nay, tiếp nối nhữnggiá trị truyền thống của quan hệ giao lưu văn hóa lâu đời, sự hợp tác giữa haiquốc gia vẫn tiếp tục phát triển trên mọi lĩnh vực. Lúc này không chỉ ngườiViệt tiếp tục Đông Du sang Nhật Bản, mà ngày càng đông người Nhật cũng Nam Dusang Việt Nam để nghiên cứu, học tập, du lịch và đầu tư kinh tế.
Phan Bội Châu trung thành với đường lối bạo động nhưng với phong trào Đông Du,ông đã chứng tỏ mình là một nhà duy tân tiên phong. Phan Châu Trinh tuy cực lựcphản đối bạo động và ngoại viện song chủ trương đưa thanh niên đi du học, bồidưỡng nhân tài nhằm chấn hưng đất nước lại gần gũi với tư tưởng của ông. Đây làmột phong trào gây ấn tượng mạnh và có ảnh hưởng rất lớn đối với phong tràocách mạng nước ta nửa đầu thế kỷ XX. Không lâu sau, năm 1911 Nguyễn Ái Quốccũng lên đường Tây du tìm con đường cứu nước, cái vũ khí mà Nguyễn Ái Quốc tìmkhông chỉ là một lực lượng vật chất có đủ để giải phóng dân tộc, mà là một lựclượng tinh thần mạnh hàng triệu lần hơn lực lượng vật chất đó. Tiếp sau, Đảngta thực hiện công cuộc đổi mới, đó cũng là công việc cuối thế kỷ XX, khi đấtnước ta cũng lâm vào bế tắc trong tiến trình phát triển, và sự đổi mới nhạy béntừ trong đường lối mở cửa đã được khơi thông một cách hữu hiệu. Hiện tượng duytân bằng công cuộc Đông Du diễn ra đầu thế kỷ XX mang một kết cục khác. Tuyvậy, hai sự kiện đó đã gặp nhau từ một tư tưởng lớn, đó chính là làm sao đưađất nước thoát khỏi nguy cơ trầm trọng như mất nước, thoát khỏi những định kiếnvà lề thói cũ. Cả hai phong trào đều lựa chọn cái mới, cái tiến bộ làm giảipháp cơ bản của sự phát triển.
Hoạt động yêu nước và cách mạng của phong trào Đông Du, xét trong tính liên tụccủa lịch sử dân tộc, đã là một đoạn đường cần thiết chuẩn bị cho thắng lợi cáchmạng Việt Nam dưới ngọn cờ “Không có gì quý hơn độc lập tự do!” của Chủ tịch HồChí Minh và Đảng ta. Đông Du vì vậy, chính là “dấu gạch nối” (3) kể từ sau khiphong trào yêu nước Cần Vương thất bại cho đến trước khi Nguyễn Ái Quốc thànhcông với con đường cách mạng vô sản.
Đã xa vào quá khứ đầy 1 thế kỷ, những bài học lịch sử của phong trào Đông Duvẫn còn nóng hổi trong đời sống hiện tại: Đông Du chỉ ra rằng không thể trôngchờ vào đế quốc để chống đế quốc, vì bản chất chủ nghĩa đế quốc thường giốngnhau, phải biết tự “Đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Điều đáng ghi nhận vàđánh giá cao là Phan Bội Châu cùng các đồng chí của ông đã thấy rõ không có bạolực cách mạng, vũ trang thì không thể thắng được kẻ thù. Có điều chọn con đườngbạo động vũ trang những nhà cách mạng Đông Du không hề coi nhẹ việc nâng caodân trí. Xây dựng lực lượng để bạo động giành độc lập dân tộc vẫn phải rất coitrọng việc truyên truyền giáo dục, thức tỉnh quốc dân đồng bào.
Đông Du đầu thế kỷ XX còn cho thấy, trong thời cận - hiện đại của lịch sử ViệtNam để cứu nước, để phát triển xã hội, những nhà ái quốc không thể tự giam mìnhtrong phạm vi quốc gia mà phải tiếp cận với thế giới, phải tiếp xúc và giao lưubên ngoài; từ đó có thể hiểu mình, hiểu người, hiểu rõ thực trạng đất nước, tìmra giải pháp đúng cho đất nước. Không phải ngẫu nhiên mà trong đường lối đốingoại hiện nay Đảng ta luôn dành sự chú ý đặc biệt đến các đối tác chiến lượcnhằm mục đích phục vụ tốt công cuộc đổi mới.
III. KẾT LUẬN
Hiện tượng Đông Du đầu thế kỷ trước mãi còn vang vọng trong đời sống hiện tại.Chính bởi vị trí và ý nghĩa to lớn như vậy, trong suốt những năm qua Đông Duluôn là mối quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam và nước ngoài. Những vấnđề mang tính thời sự của Đông Du như là việc tôn tạo, bảo quản các di sản vậtthể và phi vật thể của phong trào sẽ tiếp tục được chú ý. Các vấn đề như nghiêncứu về tính dân tộc, tính địa phương, các mối quan hệ của phong trào với thếgiới bên ngoài… sẽ được làm sáng tỏ và đi vào chiều sâu, tương xứng với vị tríto lớn của nó trong tiến trình lịch sử dân tộc./.
|