Trường Mở - Cộng Đồng Học Sinh Việt Nam

 Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Xem: 292|Trả lời: 4
In Chủ đề trước Tiếp theo

Bình luận các bài thơ tiêu biểu

Nhảy đến trang chỉ định
Chủ nhà
Advertisements
BÌNH LUẬN BÀI THƠ "ĐẤT NƯỚC" NGUYỄN ĐÌNH THI

Trong những ngày mùa thu tháng Tám, kỷ niệm 60 năm thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, đọc lại bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi, chúng ta cảm thấy một niềm tự hào dân tộc từ trong sâu thẳm tâm hồn.


Đất nước

Sáng mát trong như sáng năm xưa

Gió thổi mùa thu hương cốm mới

Tôi nhớ những ngày thu đã xa

Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội

Những phố dài xao xác hơi may

Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy

Mùa thu nay khác rồi

Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi

Gió thổi rừng tre phấp phới

Trời thu thay áo mới

Trong biếc nói cười thiết tha!

Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta

Những cánh đồng thơm ngát

Những ngả đường bát ngát

Những dòng sông đỏ nặng phù sa

Nước chúng ta

Nước những người chưa bao giờ khuất

Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất

Những buổi ngày xưa vọng nói về!

Ôi những cánh đồng quê chảy máu

Dây thép gai đâm nát trời chiều

Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.

Từ những năm đau thương chiến đấu

Đã ngời lên nét mặt quê hương

Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu

Đã bật lên những tiếng căm hờn

Bát cơm chan đầy nước mắt

Bay còn giằng khỏi miệng ta

Thằng giặc Tây, thằng chúa đất

Đứa đè cổ, đứa lột da...

Xiềng xích chúng bay không khóa được

Trời đầy chim và đất đầy hoa

Súng đạn chúng bay không bắn được

Lòng dân ta yêu nước thương nhà!

Khói nhà máy cuộn trong sương núi

Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng

Ôm đất nước những người áo vải

Đã đứng lên thành những anh hùng

Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội

Mỗi bước đường mỗi bước hy sinh

Trán cháy rực nghĩ trời đất mới

Lòng ta bát ngát ánh bình minh.

Súng nổ rung trời giận dữ

Người lên như nước vỡ bờ

Nước Việt Nam từ máu lửa

Rũ bùn đứng dậy sáng lòa!


1948

(Rút trong tập thơ Người chiến sĩ, NXB Văn nghệ, 1956).


Bài thơ Đất nước được Nguyễn Đình Thi sáng tác vào cuối năm 1948 (theo hồi ức của nhà văn Tô Hoài) tại chiến khu Việt Bắc, mà cụ thể là ở vùng rừng núi Tuyên Quang. Lúc đó, ông đang là Ủy viên Ban Chấp hành Hội Văn nghệ VN. Đất nước ra đời sau bài hát Người Hà Nội chưa đầy một năm, vì vậy không khí trường ca vẫn còn thấm đẫm. Có thể coi Đất nước của Nguyễn Đình Thi là một trường ca thu nhỏ, bởi nó mang trong mình đầy đủ những phẩm chất cốt lõi của một trường ca.


Chính vì vậy, bài thơ Đất nước đã là một gợi ý cho rất nhiều những trường ca sau này, xuất hiện trong thời chống Mỹ. Tôi nói là những "gợi ý", nhưng thực chất đó là những bài học về phương pháp tư tưởng, phong cách nghệ thuật, và cả thủ pháp nghệ thuật khi tiến hành một trường ca.


Tuy nhiên, bài thơ Đất nước vẫn nguyên vẹn và mãi nguyên vẹn là một bài thơ trữ tình hoành tráng và lộng lẫy. Nhà thơ sáng tác bài thơ này ở tuổi 24, ở tuổi ấy mà viết như thế, chỉ có những thiên tài mới làm nổi, chỉ có dân tộc và cách mạng mới làm nổi.


Tài năng của Nguyễn Đình Thi đã gặp được thiên thời - địa lợi - nhân hòa, gặp được ngọn gió lớn mà ta vẫn quen gọi là "bão táp Cách mạng", vì thế mà vút lên, vì thế mà bền lâu, vì thế mà cách tân và hiện đại.


Nói "hiện đại" là ngầm so sánh với cái gì trước đó là "chưa hiện đại". Ở đây tôi muốn dừng lại ở một so sánh nho nhỏ, rằng Đất nước của Nguyễn Đình Thi hiện đại hơn Thơ mới trước đó không bao lâu.


Ông mở đầu bài thơ bằng việc tả mùa thu, một mùa thu như bao mùa thu trong cách nhìn của mùa thu thứ nhất, mùa thu đầu tiên:


Sáng mát trong như sáng năm xưa

Gió thổi mùa thu hương cốm mới

Ta nhớ những ngày thu đã xa...


"Những ngày thu đã xa" là những ngày thu nào vậy? Phải chăng, đó là một nỗi buồn trong thơ Bích Khê:


Ô hay! Buồn vương cây ngô đồng

Vàng rơi, vàng rơi... thu mênh mông!

Hay trong thơ Chế Lan Viên trước đó:

Thu đến đây, chừ biết nói răng

Chừ đây buồn giận biết sao ngăn

Tìm trong những sắc hoa đang rụng

Ta kiếm trong hoa chút sắc tàn!


Không phải vậy, nỗi nhớ mùa thu năm xưa là một mùa thu rất khác. Đó là mùa thu năm 1946, đất nước sau bao cố gắng của Bác Hồ, vẫn phải một lần nữa đứng lên đánh Pháp, đấy là mùa thu nhà thơ trẻ phải rời Thủ đô Hà Nội thân yêu một lần nữa để trở lại chiến khu Việt Bắc, với niềm tin "Kháng chiến trường kỳ nhất định thắng lợi". Phút chia tay với Thủ đô yêu dấu chưa đầy một tuổi Dân chủ Cộng hòa, tâm trạng nhà thơ mới bồi hồi, xao xuyến, xa xót làm sao:


Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội

Những phố dài xao xác hơi may

Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy!


Thơ ấy có nhạc và có hoa. Giai điệu đã sẵn trong giai điệu và tiết tấu của thơ rồi, còn vẽ một bức tranh lụa hay sơn dầu thì sao? Khó nhất là tả cho được cái buổi sáng "chớm lạnh", và những đường phố dài "xao xác hơi may". Còn "người ra đi đầu không ngoảnh lại" và "sau lưng thềm nắng lá rơi đầy" chắc chắn là "nhìn được" bằng đường nét, bố cục và mầu sắc.

Nhưng không phải vậy đâu, tả được cái tình rưng rưng nước mắt của người "ra đi đầu không ngoảnh lại" kia mới là thật khó. Cái ấy, cái điều chiêm cảm ấy, chỉ có thơ mới làm được!


Và thơ cũng làm được một điều hơn thế, rằng chỉ sau hai khổ thơ đầu với lưu luyến, buồn thương, đau xót tiễn đưa, mùa thu bỗng khác hẳn, sáng bừng lên với một mầu sắc khác, bởi tâm trạng của người thơ đã khác, khỏe mạnh, tự tin và sáng bừng lên:


Mùa thu nay khác rồi!


Chỉ với năm chữ mở đầu của khổ thơ thứ ba "Mùa thu nay khác rồi" ta thấy tâm thế của người thơ đã chuyển, đã vươn tới một vị thế cao hơn, tự tin và sung mãn hơn trong tầm vóc của một nội lực lớn. Hình tượng của nhà thơ bỗng cao sừng sững:


Ta đứng vui nghe giữa núi đồi

Gió thổi rừng tre phấp phới

Trời thu thay áo mới

Trong biếc, nói cười, thiết tha...


Nhận thức về "nội hàm" của một mùa thu mới là vô cùng sáng rõ và cách tân, bởi đây là mùa thu khác, mùa thu của những người đã có quyền làm chủ núi đồi, làm chủ những rừng tre phấp phới, và là một "mùa thu thay áo mới", một mùa thu "trong biếc, nói cười, thiết tha!".


Câu cuối của khổ thơ này thật tài hoa, và nó là đặc sản của thi tài Nguyễn Đình Thi.


Sự kết hợp của những tính từ - động từ - trạng từ, bất ngờ đến nỗi làm ta phải sững sờ trong chiêm cảm một vẻ đẹp ngôn ngữ Việt mà trước đây chưa bao giờ có. Ai trong biếc? Ai nói cười? Ai thiết tha? Chính là hồn của mùa thu mới, hồn của dân tộc vậy!


Một câu thơ mà làm sáng cả non sông, đất nước và làm cho chúng ta tự hào, tự tin biết bao. Một đất nước, với những ngày thu ấy, sẽ mãi mãi trường tồn. Đó là chủ quyền của người Việt, của giống nòi dân Việt. Trong cảm hứng hào sảng ấy ông viết tiếp:


Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta

Những cánh đồng thơm ngát

Những ngả đường bát ngát

Những dòng sông chảy nặng phù sa...

Để rồi, vang vọng những câu thơ hào sảng nhất về giống nòi:

Nước chúng ta

Nước những người chưa bao giờ khuất

Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất

Những buổi ngày xưa vọng nói về

Ngày xưa nói về gì vậy?

Những buổi ngày xưa nói gì đây?

Và ông trả lời như một bích họa thắm đỏ máu xương, rằng:

Ôi! Những cánh đồng quê chảy máu

Dây thép gai xé nát trời chiều

Và: Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu


Tôi gọi những câu thơ này là những câu thơ thăng hoa nhất của người chiến sĩ - nghệ sĩ Nguyễn Đình Thi. Ngoài những gì hay và đẹp nhất mà ông đã dâng hiến cho nền thi ca hiện đại Việt Nam, những câu thơ trên, ông đã tự khiêm nhường bộc lộ một thiên tài thi ca, ít ai sánh nổi:


Cảm hứng rộng dài đất nước, dân tộc và cá nhân người chiến sĩ đã gắng quện vào nhau, hòa đồng trong nhau, để bản thân người nghệ sĩ bỗng trở thành một tế bào của đất nước. Một đất nước từng Ngời lên nét mặt quê hương/ Mỗi gốc lúa, bờ tre hồn hậu/ Cũng bật lên những tiếng căm hờn! Rồi ông nói, như hai triệu người dân chết đói nói, như tiếng vọng của những âm hồn:


Bát cơm chan đầy nước mắt

Bay còn giằng khỏi miệng ta

Thằng giặc Tây, thằng chúa đất

Đứa đè cổ, đứa lột da...


Đau buồn ấy là đau buồn ký sự, đau buồn nhiếp ảnh, đau buồn hội họa. Còn đau buồn và phản kháng thơ phải cao bút lên như thế này, sâu thẳm và triết luận trong một so sánh và phương pháp tư tưởng đầy nghịch lý, minh triết như thế này:

Xiềng xích chúng bay không khóa được


Trời đầy chim và đất đầy hoa

Súng đạn chúng bay không bắn được

Lòng dân ta yêu nước thương nhà...


Những câu thơ tưởng như một lời đại ngôn ấy, bỗng làm người đọc xúc động và thẩm thấu một ý nghĩa quan trọng trong triết học về lẽ sống. Ai giết nổi chim và hoa? Ai bắn được "lòng dân ta yêu nước thương nhà!" Ấy là sự bắn vào hư không, ấy là sự tàn sát trong vô vọng. Hệ quả cuối cùng, chỉ là sự thất bại mà thôi!


Chủ nghĩa thực dân cũ trên toàn cầu đã thất bại hoàn toàn vì chân lý giản dị ấy, và Nguyễn Đình Thi - với một chiêm cảm lớn, đã tổng kết qua thơ.


Càng đọc Đất nước, chúng ta càng cảm nhận và thấu suốt, đó là một bài thơ lớn, được viết từ một tâm hồn, tâm hồn của một nghệ sĩ đồng hành với lòng dân, biết tôn vinh một giá trị vĩnh hằng, đó là tấm lòng cửa người dân với quê hương, đất nước. Non sông nước Việt vẫn trường tồn, đã trường tồn, đang trường tồn và sẽ trường tồn bởi một giá trị văn hóa vĩnh hằng, đó chính là: "Lòng dân ta yêu nước, thương nhà!


Trong những ngày mùa thu tháng Tám, kỷ niệm 60 năm thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, đọc lại bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi, chúng ta cảm thấy một niềm tự hào dân tộc từ trong sâu thẳm tâm hồn.


Súng nổ rung trời giận dữ

Người lên như nước vỡ bờ

Nước Việt Nam từ máu lửa

Rũ bùn, đứng dậy sáng lòa!


Những câu thơ ấy cho ta gặp lại một mùa thu năm xưa, một mùa thu định mệnh của toàn dân tộc, và bỗng cảm thấy tâm hồn thanh thản, sạch trong "mát trong như sáng năm xưa".


Viết về bài thơ Đất nước, tôi ngỡ như được gặp lại ông - một Nguyễn Đình Thi ân tình và cởi mở, thường gật đầu hiền hậu khi gặp tôi ở sân 51 Trần Hưng Đạo, đôi khi vẫy tay gọi lôi lên phòng của ông, tặng tôi một tập thơ vừa xuất bản. Trong tôi, Nguyễn Đình Thi vĩnh hằng là một nhà văn lớn, một nghệ sĩ lớn và độc đáo của dân tộc Việt.


Cùng với những bản nhạc Diệt phát xít, Người Hà Nội, bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi mãi mãi sống cùng non sông đất nước.


Thread Hot
[Làm văn] Nghị luận xã hội về đức tính tru
[Làm văn] Đóng vai Trọng Thủy kể lại truyện
[Triết Lý Cuộc Sống] 76 câu nói hay nhất..
[Văn học Việt Nam] Cảm nhận về thân phận n
[Văn học Việt Nam] Phân tích đoạn trích Tr
[Ôn thi ĐH - CĐ] So sánh Chiến tranh đặc biệ
[Lịch sử Việt Nam] So sánh Cương lĩnh chí
[Làm văn] Em hãy đóng vai Cám và kể lại câ
[Tiếng Pháp] Le passé composé (Thì Quá khứ k
[Văn học Việt Nam] Phân tích nhân vật anh t
[Địa lý Việt Nam] Địa lý 7 vùng Kinh tế
[Phổ Thông] Viết lại câu cho nghĩa không đ

Sofa
 Tác giả| Đăng lúc 27-4-2012 23:37:06 | Chỉ xem của tác giả
BÌNH LUẬN BÀI THƠ "SÓNG"

"Sóng" được in trong tập "Hoa dọc chiến hào", xuất bản năm 1968 của nữ nhà thơ tình nổi tiếng Xuân Quỳnh. Bài thơ nói về tâm trạng, tình yêu mãnh liệt của người con gái khi yêu. Hãy đến với bài thơ bằng nhạc điệu, bài thơ là âm điệu của một cõi lòng bị sóng khuấy động, đang rung lên đồng điệu đồng nhịp với sóng biển. Rạo rực đến xôn xao, khát khao đến khắc khoải, có một hình tượng sóng được vẽ lên bằng âm điệu, một âm điệu dập dồn, chìm nổi, miên man như hơi thở chạy suốt cả bài.


Sắc điệu trữ tình của bài thơ được gợi lên từ hình tượng sóng. Cả bài thơ là những con sóng tâm tình xôn xao trong lòng người con gái đang yêu khi đứng trước biển ngắm nhìn những con sóng vô hồi, bất tận. Sóng là một hình tượng ẩn dụ, đó là sự hóa thân của cái tôi trữ tình của nữ sĩ, lúc thì hòa nhập, lúc sự phân thân của "em" - người con gái đang yêu một cách say đắm. Sóng đã khơi gợi một hồn thơ phong phú, hồn nhiên, sôi nổi. Thông qua hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã có một cách nói rất hay để diễn tả tâm trạng của người con gái.


Thật tự nhiên và thơ mộng, con sóng nhớ bờ nên ngày đêm sóng vỗ, sóng thao thức với thời gian và đại dương. Cũng giống như bên đợi thuyền, thuyền nhớ bến, lúc nào lòng người con gái cũng bồi hồi nhớ thương:


"Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức"


"Còn thức" tức là lúc nào em cũng nhìn thấy rõ hình bóng anh, ánh mắt anh ... Một tình yêu cuồng nhiệt, say mê. Con sóng khao khát được đến bờ để được vỗ về, ve vuốt:


"Hôn thật khẽ thật êm

Hôn êm đềm mãi mãi"

(Xuân Diệu)


Cũng như "em" muốn được gần bên anh, được hòa nhịp vào trong tình yêu với anh. Tình yêu của người con gái thật mãnh liệt, nồng nàn. Sóng xa vời cách trở vẫn tìm được tới bờ, cũng như anh và em sẽ vượt qua mọi khó khăn để đến với nhau, để sống trong hạnh phúc trọn vẹn của lứa đôi.


"Ở ngoài kia đại dương

Trăm ngàn con sóng nhỏ

Con nào cũng tới bờ

Dù muôn vời cách trở"


Người con gái đã bày tỏ lòng mình một cách chân thành, say đắm, thắm thiết. Chân thật và thủy chung là đặc tính của tình yêu:


"Dẫu xuôi về phương Bắc...

Hướng về anh một phương".


Sóng đã bày tỏ nỗi lòng của người con gái, khát vọng được sống hết mình trong một tình yêu đẹp, sắt son thủy chung. Người ta thường nói xuôi vào Nam, ngược ra Bắc; nhưng ở đây, trong nỗi nhớ chất đầy nhà thơ lại dùng ngược lại. Từ đó nhà thơ đã nói đến nỗi nhớ bất chấp vạn vật, khoảng cách, tình yêu là sự gặp gỡ giữa hai tâm hồn không có giới hạn.


Cuối cùng sóng đã nói hộ nhà thơ nỗi khát vọng được sống trọn vẹn trong tình yêu. Tình yêu lứa đôi đẹp đẽ, nồng nàn như trăm ngàn con sóng nhỏ giữa đại dương mênh mông, muốn được hoà nhịp vào biển lớn của tình yêu cộng đồng:


"Làm sao được tan ra

Thành trăm con sóng nhỏ

Giữa biển lớn tình yêu

Để ngàn năm còn vỗ"


Cả bài thơ, nếu kể đến nhan đề, thì tác giả đã mười một lần nhắc đến từ "sóng". Sóng vỗ như tâm tình xôn xao. Sóng cho ta nhiều ấn tượng về âm điệu của sóng, cũng như giọng điệu tâm tình, nhịp điệu của bài thơ. Thơ hồn nhiên, liền mạch về cảm xúc, trong sáng trong cách diễn đạt của tác giả. Sóng vỗ trên đại dương mênh mông cũng chính là sóng vỗ trong lòng người con gái.


Từ hình tượng "sóng" Xuân Quỳnh cho ta thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu. Với tình yêu chân thành, thắm thiết, người phụ nữ muốn sống hết mình, sống trọn vẹn trong tình yêu đẹp. Yêu là nhớ ngày mong đêm, người phụ nữ khát khao được hòa nhập gần gũi trong tình yêu ấy. Họ yêu thật nồng nàn, say đắm, thủy chung.


Xuân Quỳnh viết bài thơ này vào những năm 1967, khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam ở vào giai đoạn ác liệt, khi thanh niên trai gái ào ào ra trận "xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước", khi sân ga, bến nước, gốc đa, sân trường diễn ra những cuộc chia ly màu đỏ. Cho nên có đặt bài thơ vào trong hoàn cảnh ấy ta mới càng thấy rõ nỗi khát khao của người con gái trong tình yêu.


"Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được"


Đọc xong bài thơ Sóng ta càng ngưỡng mộ hơn những con người phụ nữ Việt Nam, những con người luôn thủy chung, luôn sống hết mình vì một tình yêu. Xuân Quỳnh xứng đáng là một nhà thơ nữ của tình yêu lứa đôi, bà đã làm phong phú hơn cho nền thơ nước nhà.


Ghế gỗ
 Tác giả| Đăng lúc 27-4-2012 23:45:00 | Chỉ xem của tác giả
BÌNH LUẬN BÀI THƠ "VỘI VÀNG"

Phân tích bài thơ "Vội vàng" của Xuân Diệu Nhà thơ Thế Lữ, trong lời Tựa cho tập Thơ Thơ của Xuân Diệu, đã có nhận xét khá tinh tế: "Xuân Diệu .là một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian" . Đã hơn hai mươi năm Xuân Diệu giã từ chúng ta vào cõi hư vô, nhưng "tấm lòng trần gian" của ông dường như vẫn còn ở lại. Cứ mỗi lần xuân tới, những trái tim non trẻ của các thế hệ học sinh lại rung lên những cảm xúc mãnh liệt trước tâm tình của Xuân Diệu gửi gắm với đời trong bài thơ Vội vàng, gắn với niềm khát khao giao cảm với đất trời, con người tràn mê đắm của thi nhân, trong mùa xuân diệu kì!


Làm thơ xuân vốn là một truyền thống của thi ca Việt Nam, bao nét xuân đi vào thi ca đều mang một dấu ấn cảm xúc riêng. Đặc biệt, trong thơ lãng mạn Việt Nam 1932 – 1945, mùa xuân còn gắn với cái tôi cá nhân cá thể giàu cảm xúc của các nhà thơ mới. Có thể kể đến một Hàn Mặc Tử với "khách xa gặp lúc mùa xuân chín…", một Nguyễn Bính với "mùaxuân là cả một mùa xanh…". Nhưng có lẽ Xuân Diệu chính là người đã đem vào trong cảm xúc mùa xuân tất cả cái rạo rực đắm say của tình yêu. Vội vàng là lời tâm tình với mùa xuân của trái tim thơ tuổi hai mươi căng nhựa sống.


Cái động thái bộc lộ đầy đủ nhất thần thái của Xuân Diệu có lẽ là vội vàng. Ngay từ hồi viết Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã thấy "Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuốn quýt". Cho nên, đặt cho bài thơ rất đặc trưng của mình cái tên Vội vàng, hẳn đó phải là một cách tự bạch, tự họa của Xuân Diệu. Nó cho thấy thi sĩ rất hiểu mình.


Thực ra, cái điệu sống vội vàng, cuống quýt của Xuân Diệu bắt nguồn sâu xa từ ý thức về thời gian, về sự ngắn ngủi của kiếp người, về cái chết như là một kết cục không tránh khỏi mai hậu. Sống là cả một hạnh phúc lớn lao diệu kỳ. Mà sống là phải tận hiến và tận hưởng! Đời người là ngắn ngủi, cần tranh thủ sống. Sống hết mình, sống đã đầy. Thế nên phải chớp lấy từng khoảnh khắc, phải chạy đua với thời gian. Ý thức ấy luôn giục giã, gấp gáp. Bài thơ này được viết ra từ cảm niệm triết học ấy.


Thông thường, yếu tố chính luận đi cùng thơ rất khó nhuần nhuyễn. Nhất là lối thơ nghiêng về cảm xúc rất "ngại" đi cùng chính luận. Ấy thế nhưng nhu cầu phô bày tư tưởng, nhu cầu lập thuyết lại không thể không dùng đến chính luận. Thơ Xuân Diệu hiển nhiên là loại thơ xúc cảm. Nhưng đọc kỹ sẽ thấy rằng thơ Xuân Diệu cũng rất giàu chính luận. Nếu như cảm xúc làm nên cái nội dung hình ảnh, hình tượng sống động như mây trôi, nước chảy trên bề mặt của văn bản thơ, thì dường như yếu tố chính luận lại ẩn mình, lặn xuống bề sâu, làm nên cái tứ của thi phẩm. Cho nên mạch thơ luôn có được vẻ tự nhiên, nhuần nhị. Vội vàng cũng thế. Nó là một dòng cảm xúc dào dạt, bồng bột cuốn theo bao hình ảnh thi ca như gấm như thêu của cảnh sắc trần gian. Nhưng nó cũng là một bản tuyên ngôn bằng thơ, trình bày cả một quan niệm nhân sinh về lẽ sống vội vàng. Có lẽ không phải thơ đang minh họa cho triết học. Mà đó chính là minh triết của một hồn thơ.


Mục đích lập thuyết, dạng thức tuyên ngôn đã quyết định đến bố cục của Vội vàng. Thi phẩm khá dài nhưng tự nó hình thành hai phần khá rõ rệt. Cái cột mốc ranh giới giữa hai phần đặt vào ba chữ "Ta muốn ôm". Phần trên nghiêng về luận giải cái lí do vì sao cần sống vội vàng. Phần dưới là bộc lộ cái hành động vội vàng ấy. Nói một cách vui vẻ: trên là lý thuyết, dưới là thực hành! Điều rất dễ thấy là thi sĩ chọn cách xưng hô cho từng phần. Ở trên, xưng "tôi", lập thuyết đối thoại với đồng loại. Ở dưới, xưng "ta", đối diện với sự sống. Phần luận lí có xu hướng cắt xẻ bài thơ. Nhưng hơi thơ bồng bột, giọng thơ dào dạt, sôi nổi đã xóa mọi cách ngăn, khiến thi phẩm vẫn luôn là một chỉnh thể sống động, tươi tắn và truyền cảm.


Mở đầu bài thơ là một khổ ngũ ngôn thể hiện một ước muốn kì lạ của thi sĩ. Ấy là cái ước muốn quay ngược quy luật tự nhiên – một ước muốn không thể:


Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất;

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi.


Muốn "tắt nắng", muốn "buộc gió", thật là những ham muốn kỳ dị, chỉ có ở thi sĩ. Nhưng làm sao cưỡng được quy luật, làm sao có thể vĩnh viễn hóa được những thứ vốn ngắn ngủi mong manh ấy? Cái ham muốn lạ lùng kia đã hé mở cho chúng ta một lòng yêu bồng bột vô bờ đối với cái thế giới thắm sắc đượm hương này.


Thế giới này được Xuân Diệu cảm nhận theo một cách riêng. Nó bày ra như một thiên đường trên mặt đất, như một bữa tiệc lớn của trần gian. Được cảm nhận bằng cả sự tinh vi nhất của một hồn yêu đầy ham muốn, nên sự sống cũng hiện ra như một thế giới đầy xuân tình. Cái thiên đường sắc hương đó hiện ra trong Vội vàng vừa như một mảnh vườn tình ái, vạn vật đương lúc lên hương, vừa như một mâm tiệc với một thực đơn quyến rũ, lại vừa như một người tình đầy đắm say. Xuân Diệu cũng hưởng thụ theo một cách riêng. Ấy là hưởng thụ thiên nhiên như hưởng thụ ái tình. Yêu thiên nhiên mà thực chất là tình tự với thiên nhiên.


Hãy xem cách diễn tả vồ vập về thiên nhiên ở thì xuân sắc, một thiên nhiên rạo rực xuân tình:


Của ong bướm này đây tuần tháng mật,

Này đây hoa của đồng nội xanh rì,

Này đây lá của cành tơ phơ phất;

Của yến anh này đây khúc tình si,

Và này đây ánh sáng chớp hàng mi.

Mỗi sáng sớm thần Vui hằng gõ cửa;

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;


Có lẽ trước Xuân Diệu trong thơ Việt Nam chưa có cảm giác "Tháng giêng ngon như một cặp môi gần". Nó là cảm giác của ái ân tình tự. Cảm giác ấy đã làm cho người ta thấy tháng giêng mơn mởn non tơ đầy một sức sống thanh tân kia mà sao quyến rũ – tháng giêng mang trong nó sức quyến rũ không thể cưỡng được của một người tình rạo rực, đắm say.


Hai mảng thơ đầu kế tiếp nhau đã được liên kết bằng cái logic luận lí ngầm của nó. Thi sĩ muốn "tắt nắng", "buộc gió" chính vì muốn giữ mãi hương sắc cho trần thế này đây. Hương sắc là cái sinh khí của nó, là cái vẻ đẹp, cái nhan sắc của nó. Tất cả chỉ rực rỡ trong độ xuân thì. Mà xuân lại vô cùng ngắn ngủi. Và thế là mảng thơ thứ ba của phần luận giải đã hình thành để nói về cái ngắn ngủi đến tàn nhẫn của xuân thì đối với sự sống và cái xuân thì của con người. Phải, cái thế giới này lộng lẫy nhất, "ngon" nhất là ở độ xuân; còn con người cũng chỉ hưởng thụ được cái "ngon" kia khi còn trẻ thôi. Mà cả hai đều vô cùng ngắn ngủi, thời gian sẽ cướp đi hết thảy. Có lẽ cũng lần đầu tiên, thơ ca Việt Nam có được cái quan niệm này:


Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,

Xuân còn no nghĩa là xuân sẽ già.


Con người thời trung đại hình như yên trí với quan niệm thời gian tuần hoàn với cái chu kỳ bốn mùa, cũng như cái chu kì ba vạn sáu ngàn ngày của kiếp người. Con người hiện đại sống với quan niệm thời gian tuyến tính, thời gian như một dòng chảy mà mỗi một khoảnh khắc qua là mất đi vĩnh viễn. Cho nên Xuân Diệu đã nồng nhiệt phủ định:


Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại !


Thước đo thời gian của thi sĩ là tuổi trẻ. Tuổi trẻ một đi không trở lại thì làm chi có sự tuần hoàn !

Trong cái mênh mông của đất trời, cái vô tận của thời gian, sự có mặt của con người thật là ngắn ngủi, hữu hạn. Nghĩ về tính hạn chế của kiếp người, Xuân Diệu đã đem đến một nỗi ngậm ngùi thật mới mẻ:


Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,

Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;

Và đem đến một cảm nhận đầy tính lạ hóa về thời gian và không gian:

Mùi tháng năm đền rớm vị chia phôi

Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt…


Là người đã tiếp thu ở mức nhuần nhuyễn phép "tương giao" của lối thơ tượng trưng, Xuân Diệu đã phát huy triệt để sự tương giao về cảm giác để cảm nhận và mô tả thế giới. Thời gian được cảm nhận bằng khứu giác: "Mùi tháng năm" – thời gian của Xuân Diệu được làm bằng hương – chẳng thế mà thi sĩ cứ muốn buộc gió lại ư? Một chữ "rớm" cho thấy khứu giác đã chuyển thành thị giác. Nó nhắc ta nhớ đến hình ảnh giọt lệ. Chữ "vị" liền đó, lại cho thấy cảm giác thơ đã chuyển qua vị giác. Và đây là một vị hoàn toàn phi vật chất: "vị chia phôi" ! Thì ra chữ "rớm" và chữ "vị" này đều từ một hình ảnh ẩn hiện là giọt lệ chia phôi đó. Vì sao thời gian lại mang cái hương vị - hình thể của chia phôi? Ấy là những cảm giác chân thực hay chỉ là trò diễn của ngôn ngữ theo kịch bản của phép "tương giao"? Cái tinh tế của Xuân Diệu chính là ở đấy ! Thi sĩ cảm thấy thật hiển hiện mỗi khoảnh khắc đang lìa bỏ hiện tại để trở thành quá khứ thật sự là một cuộc ra đi vĩnh viễn. Trên mỗi thời khắc đều đang diễn ra một cuộc chia tay của thời gian với con người, với không gian và với cả chính thời gian. Cho nên thi sĩ nghe thấy một lời than luôn âm vang khắp núi sông này, một lời than vĩnh viễn: than thầm tiễn biệt. Không gian đang tiễn biệt thời gian ! Và thời gian trôi đi sẽ khiến cho cái nhan sắc thiên nhiên diệu kỳ này bước vào độ tàn phai. Một sự tàn phai không thể nào tránh khỏi !

Thế đấy, không thể buộc gió, không thể tắt nắng, cũng không thể cầm giữ được thời gian, thì chỉ có cách thực tế nhất là chạy đua với thời gian, là phải tranh thủ sống:


Chẳng bao giờ, ôi ! Chẳng bao giờ nữa…

Mau đi thôi ! Mùa chưa ngả chiều hôm

Đến đây phần luận giải của tuyên ngôn vội vàng đã đủ đầy luận lý !


Bài thơ được kết thúc bằng những cảm xúc mãnh liệt, bằng những tham muốn mỗi lúc một cuồng nhiệt , vồ vập. Đó là cả một cuộc tình tự với thiên nhiên, ái ân cùng sự sống. Chỉ có thể diễn tả như thế, Xuân Diệu mới phô diễn được cái lòng ham sống, khát sống sung mãn của mình:


Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước, và cây, và cỏ rạng,

Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,

Cho no nê thanh sắc của thời tươi;

- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !


Nếu chọn một đoạn thơ trong đó cái giọng sôi nổi bồng bột của Xuân Diệu thể hiện đầy đủ nhất, thì đó phải là đoạn thơ này. Ta có thể nghe thấy giọng nói, nghe thấy cả nhịp đập của con tim Xuân Diệu trong đoạn thơ ấy. Nó hiện ra trong những làm sóng ngôn từ đan chéo nhau, giao thoa và song song vỗ vào tâm hồn người đọc. Cái điệp ngữ "ta muốn" được lặp đi lặp lại với mật độ thật dày và cũng thật đích đáng. Nhất là mỗi lần điệp lại đi liền với một động thái yêu đương mỗi lúc một mạnh mẽ, mãnh liệt, nồng nàn: ôm – riết – say – thâu – cắn. Có thể nói câu thơ "Và non nước, và cây, và cỏ rạng" là không thể có đối với thư pháp trung đại vốn coi trọng những chữ đúc. Thậm chí, đối với thơ xưa, đó sẽ là câu thơ vụng. Tại sao lại thừa thãi liên từ "và" đến thế ? Vậy mà, đó lại là sáng tạo của nhà thơ hiện đại Xuân Diệu. Những chữ "và" hiện diện cần cho sự thể hiện nguyên trạng cái giọng nói, cái khẩu khí của thi sĩ. Nó thể hiện đậm nét sắc thái riêng của cái tôi Xuân Diệu. Nghĩa là thể hiện một cách trực tiếp, tươi sống cái cảm xúc tham lam đang trào lên mãnh liệt trong lòng ngực yêu đời của thi sĩ !


Câu thơ:

Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,

Cho no nê thanh sắc của thời tươi;


cũng tràn đầy những làn sóng ngôn từ như vậy. Từ "cho" điệp lại với mức độ tăng tiến nhấn mạnh các động thái hưởng thụ thỏa thuê: chuếnh choáng – đã đầy – no nê. Sóng cứ càng lúc càng dâng cao, càng vỗ mạnh, đẩy cảm xúc lên tột đỉnh:

Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !


Ta thấy Xuân Diệu như một con ong hút nhụy đã no nê đang lảo đảo bay đi. Lại thấy thi sĩ như một tình lang trong cuộc tình chuếnh choáng men say.


Có thể nói Xuân Diệu qua bài thơ này không chỉ "sống" hay "ham sống" mà ông "say sống". Sống mãnh liệt, hối hả kẻo nữa lại tiếc nuối - Đó là một nhân sinh quan lành mạnh. Nó khác với sự nguội lạnh, hờ hững, lạt lẽo. Bài thơ là nhịp đập gấp gáp trước "thanh sắc trần gian" một ngày xuân của một trái tim chưa bao giờ chán sống.


Sống là hạnh phúc. Muốn đạt tới hạnh phúc phải sống vội vàng. Thế là, vội vàng là cách đến với hạnh phúc, là chính hạnh phúc, và hình như cũng là cái giá phải trả cho hạnh phúc vậy ! Ta hiểu vì sao khi Xuân Diệu xuất hiện, lập tức thi sĩ đã thuộc về tuổi trẻ !


Tầng
 Tác giả| Đăng lúc 27-4-2012 23:47:06 | Chỉ xem của tác giả
BÌNH LUẬN BÀI THƠ "CHIỀU TỐI"

Nhật ký trong tù là tên tập thơ của Chủ tịch HCM sáng tác, khi Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam cầm trong nhà tù Trung Quốc, từ mùa thu năm 1942 đến mùa thu năm 1943. Cuốn nhật ký bằng thơ này ghi lại biết bao điều Người đã chứng kiến và tâm tư của Người trong "mười bốn trăng tê tái gông cùm" ấy. Một trong những bài thơ tức cảnh xinh xắn nhất của tập thơ này phải kể đến bài Chiều tối (Mộ):


"Chim mỏi cánh về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không

Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết lò than đã rực hồng"

Nguyên tác là:

"Quyện điểu quy lâm tầm tức thụ

Có vân mạn mạn độ thiên không

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng"


Dựa vào thứ tự trong tập thơ "Chiều tối" được sáng tác sau ngày nhà thơ bị bắt không bao lâu. Bài thơ thể hiện cảm xúc của Người trong một lần trên đường bị giải đi, lúc trời sắp tối, giữa một miền núi.


Chiều tối (Mộ) là thời điểm ánh sáng, ban ngày gần tắt hẳn. Lúc này, chân trời bị khuất lấp bởi cây rừng và đá núi nên chút ánh sáng còn lại của phút giây ngày sắp hết có thể thấy được trên đỉnh trời. Do đó, nhà thơ đã đưa mắt lên thật tự nhiên:


"Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không"


Tạo vật lúc này đang chuyển dần sang trạng thái nghỉ ngơi sau một ngày vận động mệt mỏi. Trời tối, những con chim sau một ngày tìm mồi kiếm sống cũng đã cảm thấy uể oải cần phải nghỉ ngơi. Tuy là "chim trời", những con chim cũng cố tìm về khu rừng nơi có tổ ấm của mình để ngủ qua đêm chứ không thể dừng lại ở bất kì nơi nào được. Hình ảnh cánh chim chập choạng trên trời khoảng trời chiều vốn là một hình ảnh quen thuộc trong thơ ca:


"Chim bay về núi tối rồi"

(Ca dao)

"Chim hôm thoi thót về rừng"

(Truyện kiều)

"Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa"

(Tràng giang – Huy cận)


Hình ảnh con chim trở về rừng, không những báo hiệu cho biết ngày đã phôi pha, bóng tối sắp phủ trùm xuống mà con cho thấy rõ thêm tâm trạng của Người tù bị áp giải trên đường, khi ấy là vẫn phải đi, dù muốn dừng bước cũng đâu thế chủ động được, lại không thể có một nơi tạm gọi là tổ ấm để trở về. Hình ảnh ấy cũng làm cho cảm xúc về nỗi xa nhà, xa quê hương, về tình cảm tù tội, mất tự do, thêm sâu sắc hơn, Người đọc nhận ra một nỗi u hoài man mác từ hình ảnh ấy gợi nên.


Tiếp theo là hình ảnh con chim về rừng là hình ảnh mà nhà thơ bao quát được khi nhìn lên bầu trời khi ấy.


"Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không"


Nguyên văn: "Cô vân mạn mạn độ thiên không" nghĩa là đám mây lẻ loio chậm chậm đi qua bầu trời. Giữa bầu trời tĩnh lặng, làn mây che mặt trời cũng uể oải, mệt mỏi, cũng muốn tìm chỗ trú chân. Ngay nhà thơ lúc này cũng không thể khác. Bị giải đi trên đường, chiều tối rồi, Ngưoiừ cũng muốn có chốn nghỉ nhưng biết làm sao được! Cảnh trong hai câu thơ đều thật đẹp và gợi buồn như một bức tranh mực tàu vẽ phác gợi lên nỗi niềm cô quạnh của Người tù xa đất nước, xa quê hương, xa bạn bè và quyến thuộc hiện đang bị trói, bị áp giải. Dù tối rồi, Người vẫn phải tiếp tục cất bước trên đường thẳm tuy là đã mỏi mệt, sau một ngày đi đường khó nhọc. Do đó, có người nhận xét là cảnh trong hai câu thơ vừa tương đồng mà cũng vừa tương phản với cảnh ngộ của nhà thơ.


Hết nhìn xa, nhìn bao quát, người tù thi sĩ lại nhìn sang bên đường.


"Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết lò than đã rực hộc"

Nguyên văn:

"Sơn thôn thiếu nữa ma bao túc

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng"


Nghĩa là: "Cô gái nhỏ xóm núi xay ngô. Ngô xay xong, lò sưởi đã hồng", Từ một khung cảnh thiên nhiên quạnh vắng của hai câu thơ đầu, đến đây hai câu thơ tiếp theo, đã là một bức tranh xã hội ấm áp. Đó là hình ảnh một xóm nhỏ, nhà cửa thưa thớt của người dân miền núi. Ở đây có một cô gái nhỏ đang xay ngô, một công việc vất vả nhưng quen thuộc và sau đó ánh đỏ hồng nơi bếp lửa. Tuy chỉ là những hình ảnh bình dị về một cuộc sống thường ngày của những người dân lao động. Sau một ngày làm việc khó nhọc ngoài đồng, họ trở về nhà lo bữa ăn tối và nghỉ ngơi. Những hình ảnh đó tuy chẳng có gì đang để ý, nhưng cũng đã gây được một cảm xúc mãnh liệt cho nhà thơ. Thấp thoáng trong Nhật ký trong tù có ít nhiều hình ảnh về người phụ nữ, thông thường là phải chịu đựng nhiều cảnh không may (Nửa đêm nghe tiếng khóc chồng). Nhưng ở đây là hình ảnh "sơn thôn thiếu nữ" (cô em xóm núi) với bản chất khỏe khắn, rắn rỏi của người lao động đã góp phần khiến cho bức tranh thiên nhiên thêm đầy sức sống. Đặc biệt là hình ảnh "Lô dĩ hồng", ngọn lửa hồng, xuất hiện trong bóng chiều hôm chập choáng tuy đơn sơ, quen thuộc nhưng cũng thú vị, ấm cúng và đáng yêu xiết bao! Về câu thơ cuối bài, nhà thơ Hoàng Trung Thông nhận xét: Với một chữ "hồng", bác đã làm sáng rực lên toàn bộ bài thơ, đã làm mất đi sự mệt mỏi, sự uể oải, sự vội vã, sự nặng nề đã diễn ra trong ba câu đầu, đã làm sáng rực lên khuôn mặt của cô em sau khi xay xong ngô tối. Chữ "hồng" trong nghệ thuật thơ đường người ta gọi là "con mắt thơ" (Thi nhãn hoặc là nhãn tự (chữ mắt nó sáng bùng lên, nó căn lại, chỉ một chữ thôi với hai mươi bảy chữ khác dẫn đầu nặng đến mấy đi chăng nữa.


Với chữ "hồng" đó có ai còn cảm giác nặng nề, mệt mỏi, nhọc nhằn nữa đâu, mà chỉ thấy màu đỏ đã nhuốm lên cả bóng đêm, cả thân hình, cả lao động của cô gái đáng yêu kia. Đó là màu đỏ tình cảm Bác


Thật đúng như thế. Cảnh đang buồn, nhưng với ngọn lửa hồng ấm áp bên bếp gia đình, bỗng hóa vui. Cả tâm trạng nhà thơ cũng từ mệt mỏi, cô quạnh lại ở những cảm xúc thường gặp ở thơ xưa về cảnh chiều tối: một nỗi buồn mênh mang:


- Quê hương khuất bóng hoàng hôn

Trên sông khói sóng cho buồn long ai

"Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng"

(Nguyễn du – Truyện kiều)


Ngờ đâu lại chuyển sang tiếng "reo vui trên ngọn lửa hồng nơi xóm núi" của tâm hồn Bác "quên hẳn mình là một người tù chưa được dừng chân trên con đường dày ải tối tăm


Như vậy, bài thơ "chiều tối" được nhà thơ HCM sáng tác trong một hoàn cảnh riêng không có chút gì ấm áp và vui vẻ. Bài thơ tuy tả cảnh "Chiều tối" mà cuối cùng lại sáng. Đúng như nhận xét của giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh: Bức tranh "Chiều tối" của người lại có được cái ấm áp và niềm vui như thế vì người là một bản lĩnh rất cao, tâm hồn người luôn luôn hướng về sự sống và ánh sáng. Đặc biệt là người có một tấm lòng nhân ái bao la : "Ôi lòng Bác vậy cứ thương ta. Thương cuộc đời chung thương cỏ hoa. Chỉ biết quên mình cho hết thảy. Như dòng sông chảy nặng phù sa" (Bác ơi. Tố Hữu). Ở đây, Bác đã quên nỗi bất hạnh của riêng mình để vui với cái vui nho nhỏ đời thường của một cô gái vô danh nơi xóm núi vô danh bên bếp lửa hồng ấm cùng. Cao cả biết bao là chủ nghĩa nhân đạo của HCM.


5#
 Tác giả| Đăng lúc 27-4-2012 23:53:20 | Chỉ xem của tác giả
VÀI Ý VỀ BÀI THƠ "TRÀNG GIANG" - HUY CẬN

Ai yêu thơ cũng biết Huy Cận là một nhà thơ lớn trong thi ca Việt Nam. Từ khi tập thơ Lửa Thiêng của ông ra đời năm 1940 do Đời Nay (Tự Lực Văn Đoàn) xuất bản, nhiều nhà bình thơ đã đánh giá bài “Tràng Giang” trong đó là toàn bích, nôm na là đẹp hoàn toàn. Vâng, đẹp, rất đẹp, nhưng theo tôi, chỉ tuyệt bích mà không toàn bích như bài “Ngậm Ngùi.” Bốn khổ thơ của “Tràng Giang” là bốn bài thất ngôn tứ tuyệt riêng biệt, có thể ví như một bộ tứ bình quý giá treo trên tường nhà một đại phú gia, vuông vức, ngay ngắn, mực thước và cân đối như bất cứ bộ tứ nào: Xuân, Hạ, Thu, Đông hay Mai, Lan, Cúc, Trúc. Và ở đây là Sông, Trời, Mây, Bến.


“Tràng Giang” là sông dài. Theo cuốn Huy CậnĐời và Thơ thì khúc sông Hồng ở Chèm, Vẽ (phía bắc Hà Nội) là nguồn gợi hứng cho nhà thơ. Nhưng không nhất thiết phải là sông Hồng mà có thể là bất cứ sông nào, kể cả một con sông trong trí tưởng. Nhà thơ chỉ cần một nguồn thi hứng và dăm ba nét thực tại là đủ. Tố Hữu có đến chiến trường bao giờ đâu mà kịp thời làm được bài thơ “Hoan Hô Chiến Sĩ Điện Biên” khá hay vì dựa vào những địa danh xa lạ như Pha Đin, Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam (theo lời nhà thơ/văn Trần Đăng Khoa kể lại trong cuốn Chân dung và Đối thoại.)


Câu hỏi đầu tiên là tại sao lại “Tràng Giang” mà không phải là “Trường Giang”? Tràng khác với Trường như thế nào trong khi nghĩa hai chữ giống nhau là “dài”? Có thể nói: “Trống Trường thành lung lay bóng nguyệt” thay vì “Tràng thành” được không? Đây chỉ là vấn đề thói quen sử dụng xưa và nay mà thôi. Xưa ta nói “trống tràng,” “tràng thi,” “tràng thành.” Nay ta nói “trường.” Ta cũng có thành ngữ “tràng giang, đại hải” nghĩa đen là “sông dài, biển rộng.” Có lẽ nhà thơ lấy tứ thơ từ đó. Đọc câu cảm đề “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” thì thấy rõ thi hứng của nhà thơ. Mặt khác, dù muốn, ông cũng không thể dùng “Trường Giang” được vì trùng với tên một con sông dài, rất dài bên Trung quốc, phương Tây thường gọi là Dương tử (Yang Tze), nhưng đó chỉ là tên của khúc sông Trường Giang dài hơn ngàn dặm chẩy từ Vũ Hán ra biển, gần Thượng Hải. (Dương tử chỉ có nghĩa là một ông tên Dương nào đó). Tôi dám chắc trước khi làm bài thơ này, Huy Cận chưa bao giờ viếng sông Trường Giang bên Tầu cả. Cũng như Hồ Dzếnh, chỉ với hai câu lục bát:


Tô châu lớp lớp phù kiều
Trăng đêm Dương tử, mây chiều Giang nam.


mà tóm gọn được vẻ đẹp của phong cảnh Trung Hoa, nhưng thời ấy có lẽ ông cũng chưa bao giớ đặt chân tới Tô Châu hay Dương tử hay Giang nam, mặc dầu cha ông là người gốc Hoa. Hiểu biết ấy chỉ có thể đến từ sách vở. Trong các tác phẩm của Hồ Dzếnh, chỉ có nói tới “Quê Ngoại” chứ không nói tới quê nội.


Tại sao tôi lại dám nói chắc về Huy Cận như vậy? Đơn giản chỉ là vì “Tràng Giang” của Huy Cận không giống “Trường Giang” bên Tầu một chút nào. Một đằng thì dài, sâu, rộng, hùng vĩ và mênh mông, rất đẹp ban đêm khi trăng lấp ló sau những ngọn núi ở khúc Tam Hiệp (Three Gorges). Mà sóng nước Trường Giang thì cuồn cuộn chẩy, có đoạn mạnh như nước lũ (“Cổn cổn Trường giang đông thệ thủy”… câu đầu bài “Từ” của Tam Quốc Chí). Đằng kia thì hiền hòa, khiêm cung, sóng chỉ “gợn,” có củi khô và bèo giạt trôi trên sông và có cả cồn nhỏ nữa, nghĩa là sông có rộng nhưng không sâu lắm. Gọi là dài, nhưng không thể có sự so sánh ở đây. Vẻ đẹp của Trường Giang là vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ của thiên nhiên; vẻ đẹp của Tràng Giang là vẻ đẹp hiền dịu, thơ mộng của phong cảnh đồng quê. Nếu Huy Cận đã đi viếng Trường Giang thì chắc chắn thi hứng và lời thơ sẽ khác hẳn.


Cách sử dụng, lọc lựa chữ và đan kết chữ vào từng nhóm chữ rồi vào từng câu là cà một kỹ sảo tuyệt năng của nhà thơ để tạo nên vẻ đẹp thiên nhiên hài hòa trong một khung cảnh không lấy gì làm tráng lệ lắm mà làm ngây ngất lòng người. Có thể nói đó là một kỹ thuật gọt dũa tinh vi và khổ công chăng? Trong cuốn “Thơ, v.v… và v.v…” nhà phê bình lý luận văn học Nguyễn Hưng Quốc có nhắc lại là riêng câu “Củi một cành khô lạc mấy dòng” đã được nhà thơ nắn nót, sửa đi sửa lại nhiều lần. Có lẽ vậy, nhưng không chắc là tất cả các câu khác đều như vậy, vì mạch thơ Huy Cận tuôn chẩy tự nhiên như một dòng suối trong vắt.


Trong khổ đầu, “buồn điệp điệp” là một ý tưởng khai từ vô cùng đẹp nhưng lại mở ra một thi tứ buồn cho toàn bài, diễn đạt cái tâm cảnh cô đơn, nhớ nhà của nhà thơ trước trời, mây, nước bao la. Câu thứ hai “Con thuyền xuôi mái nước song song,” theo tôi nghĩ, đúng ra nên viết là “xuôi nước mái song song” vì “mái song song” hàm ý không cần chèo [vì xuôi nước] nên gác hai mái lên thuyền nằm song song với nhau. Theo một khía cạnh khác, “mái song song” đối ứng cực hay với “buồn đìệp điệp.” Có nhà bình thơ mới đây phê rằng “củi trôi trên sông làm sao mà khô được, mà cháy thành lửa được.” Thật là lẩm cẩm. Khô hay ướt thì có sao, miễn là nó vẫn lạc lõng trôi theo mấy dòng. Mà có ai nói đến chuyện vớt củi để đun nấu đâu? Chuyện tào lao, làm mất cả thi hứng. Câu thứ ba: “Thuyền về, nước lại” gợi sự chia ly đôi ngả giữa thuyền và nước nên thi nhân cảm thấy “sầu trăm ngả.” Đó là nỗi sầu triền miên, mông lung, mơ hồ, có tính triết lý, phảng phất trong hầu hết các bài thơ của Huy Cận.


Khổ thơ thứ hai là một bức họa đồng quê. Có những cồn cát nhỏ đìu hiu với lau lách đâu đó trên dòng sông, và đứng trên bến tĩnh lặng, trống trải ta có thề nghe thấy như văng vẳng đâu đây tiếng lao xao vang vọng từ một ngôi chợ quê đang vắng dần khách lúc chiều về. Đó là một ngôi làng gọi là xa nhưng chắc cũng không xa lắm. Hai câu sau chỉ cốt tả cảnh chiều tà. Chiều xuống thì trời phải lên, nhìn kỹ lên trời thì thấy sâu thăm thẳm (chót vót), cái đó không phài là hiện tượng đặc biệt gì. Câu sau cũng nhắc đến “trời cao,” là điều đáng lẽ nên kỵ, không nên lập lại cùng một ý tưởng ở hai câu trước, sau. Khúc sông ở đây nói là rộng nhưng chắc không sâu lắm vì có những cồn cát nổi lên đó đây.


Nhìn toàn cảnh thì thấy bức tranh đồng quê chỉ được phác họa với vài nét đơn sơ, gần như trần trụi, không cây cối, không ruộng đồng, nhưng thi điệu vang lên thì tuyệt vời.


Bèo giạt” khai từ khổ thơ thứ ba. Văn hào Nhất Linh rất thích cụm từ này nên khi viết xong Xóm Cầu Mớimới đầu ông đã có ý định thay thế nhan sách với Bèo Giạt vì cuốn tiểu thuyết, theo lời ông, mô tả “những cuộc đời ‘bèo giạt’ đến tụ hội ở xóm nhỏ cũng như những bèo giạt đến, trong ít lâu, vương bám vào chân cầu, rồi lại trôi đi theo dòng nưởc, không biết về đâu?” Sau này ông giữ nguyên nhan sách Xóm Cầu Mớinhưng phụ đề “Bèo Giạt” giữa hai ngoặc đơn bên dưới. Âu cũng là cái duyên nợ giữa một văn tài và một thi tài đều lớn như nhau đã một thời hợp tác thân thiết. Đọc truyện ngắn “Cây Bàng Lá Đỏ” của nhà văn Nguyễn Tường Thiết, ta mới thấy tình cảm Huy Cận dành cho Nhất Linh thiết tha và sâu sắc biết bao. Tiễn khách ra xe, ông còn nói, như một tiếng gào của tâm tư: “Việc gì anh ấy phải chết?” Về quan điểm chính trị thì như ai cũng đều biết, hai người khác nhau như mặt trăng với mặt trời.


Huy Cận than “không một chuyến đò ngang.” Làm sao mà có đò ngang được khi khúc sông rộng “mênh mông”? Bến thì cô liêu, nước thì mênh mông, không thể có đò ngang. Cũng vì thế mà không thể có chiếc cầu nào để “gợi chút niềm thân mật.” Ở đây, nhà thơ chỉ muốn nhấn mạnh vẻ tiêu sơ, thanh vắng, khiến lòng người cảm thấy nỗi buồn cô đơn, lạnh lẽo chỉ thấy trời, nước, bờ và bãi hoang vu của khúc sông tiếp nối nhau đến vô tận. Có thuyền về nhưng lại đi, không ghé bến. Có những hàng bèo trôi qua, không biết trôi giạt về đâu. Chiều đang xuống mau, trời thì cao vòi vọi. Một nỗi niềm trống trải lớn cho nhà thơ.

Khổ thơ sau cùng gồm toàn những câu tuyệt bút. Tài tình nhất là câu thứ ba “Hồn quê dợn dợn vời con nước,” không ai có thể diễn tả hay hơn.


Đọc câu này như muốn nổi da gà, thoáng nhớ đến mấy câu trong “Tình Quê” của Hàn Mặc Tử: “
Trước sân anh thơ thẩn / Đăm đăm trông nhạn về / Mây trời còn phiêu bạt / Lang thang trên đồi quê
.” Một số nhà bình thơ đã ám chỉ Huy Cận dùng ý “
Yên ba giang
thượng
” trong bài “Hoàng Hạc Lâu” của Thôi Hiệu để diễn dịch ra “
khói hoàng hôn.
” Chiều cũng đã xuống rồi “
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
” mà nhà mình ở đâu để gợi lên ý tưởng “
cũng nhớ nhà
”? Riêng tôi không nghĩ là sông, hồ nào chiều đến cũng có một làn sương khói mỏng là là bên trên. Hiện tượng đó tùy thuộc thời tiết và con nước. “
Yên ba
” cũng có lẽ là một khuôn sáo đưa đẩy câu thơ như trong một số thơ Đường khác. Gia dĩ “
khói
hoàng hôn”

ở đây cũng có thể là khói nhà bếp nấu cơm chiều tỏa ra trên mái rạ. Khói hay không khói thì cảnh hoang vu khi chiều xuống cũng khiến người ta nhớ nhà mà tìm đường đi về nhà. Đơn giản là để ăn cơm tối. Trường hợp Huy Cận, chắc nhà cũng không xa lắm vì ông thơ thẩn ở một khúc sông Hồng gần Hà Nội. Còn nhà thơ giang hồ Thôi Hiệu, quê Hà Nam (Henan) mà lặn lội tới tận Vũ Hán thuộc tỉnh Hồ Bắc (Hubei) để thăm Hoàng Hạc Lâu bên sông Trường Giang, thì sơn khê cách trở hàng mấy trăm dặm đường, ông ngơ ngác hỏi nhà ta ở đâu khi trời tối là hợp tình hợp cảnh.

Đặc biệt, Huy Cận là nhà thơ có một nỗi buồn tôi tạm gọi là hiện sinh hay tại-thế (existential), nó bàng bạc trong hầu hết các tác phẩm của ông. Tôi nói “hiện sinh” là bởi vì nỗi buồn đó hầu như là một phần bất khả phân của cuộc đời ông, và về mặt nghệ thuật, nó chính là đời ông. Trong cuốn Thi Nhân Việt Nam, Hoài Thanh, nhà phê bình thơ có tiếng thời tiền chiến, có nhận xét chung về Huy Cận: “Cái buồn Lửa Thiêng là cái buồn tỏa ra từ đáy hồn một người cơ hồ không biết đến ngoại cảnh.” Lời bình này, theo tôi, không thể áp dụng cho trường hợp “Tràng Giang.” Ông cũng nói: “Huy Cận đã tìm về những cảnh xưa, nơi bao người đã sa vào khuôn sáo.” Có thể đúng và không đúng với “Tràng Giang.” Có đôi chút khuôn sáo nhưng không nhiều. Ngoại cảnh ở đây là hiện đại, sờ sờ ngay trước mắt ở tại Việt Nam chứ không phải cảnh xưa trong các điển cố lịch sử. Gần đây, nhà thơ Trần Mạnh Hảo cũng gay gắt phê phán GS Tiến sĩ Trần Đình Sử vì đã diễn dịch sai ý nghĩa gắn bó của thuyền/nước và nắng xuống/trời lên, và ông Sử cho rằng “sông dài, trời rộng, bến cô liêu” không ăn nhập gì với nhau cả: cảnh vật thì vô tình vì “thiếu tình ngườì,” v.v. Trần Mạnh Hảo kết luận rằng vì không hiểu thấu nghĩa đen cũng như liên hệ biện chứng của các đoạn, câu nên ông Sử đã giải thích nỗi buồn sinh ra từ sự mất tình người, sự mất liên lạc của thế giới và như vậy, đã giết chết luôn hồn thơ Huy Cận.


Nói sao thì sao, mặc ai “bình” hay “ý” thế nào, “Tràng Giang” vẫn là một bài thơ hoàn chỉnh, tuyệt bích, một bộ tứ bình sang cả và quý giá trong ngôi nhà thi ca Việt Nam, bây giờ cũng như bao giờ.


Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc điểm

GMT+7, 19-4-2025 21:46

Trang Chủ | Diễn Đàn Trường Mở

Truongmo.com © 2011

Trả lời nhanh Lên trên Trở lại danh sách