Nhà nho ngày xưasống theo lẽ “xuất xử”: Gặp thời hưng thị thì ra cứu đời, giúp nước; khithời thế loạn lạc gặp chúa tối vua mê thì rút lui về ở ẩn bên núi, bên sông. Nguyễn BỉnhKhiêm (1491 - 1585) đỗ Trạng nguyên; học vị cao nhất thời phong kiến, làm quandưới triều nhà Mạc được 8 năm. Nhận thấy xã hội rối ren, nạn cát cứ và tranhchấp giữa các tập đoàn phong kiến Lê - Mạc, Trịnh - Nguyễn kéo dài, ông bèn cáoquan về ẩn cư trên 40 năm ở quê nhà, làm am Bạch Vân, sửa cầu Nghinh Phong,Trường Xuân, lập quán Trung Tân ở bến Tuyết Giang, dạy nhiều học trò, do đóđược người đời gọi là Tuyết Giang phu tử. Tại đây, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã viếtnhiều bài thơ Nôm nổi tiếng trong đó có bài “Nhàn”. Trong hai câuđề, nhà thơ nêu lên cảnh lao động tự cung, tự cấp: “Một mai, mộtcuốc, một cần câu, Thơ thẩn dù ai vui thú nào”. Mai là công cụđể đào, cuốc để xới và cần câu để kiếm tôm cá. Nhịp thơ 2/2/3 gợi tả phong tháikhoan thai của nhà Nho. Dù có lao động vất vả nhưng tác giả tỏ ra mãn nguyệnvới cuộc sống mà mình đã lựa chọn. “Thơ thẩn” là sống ung dung, khôngbận tâm đến sự đời đen bạc. Hai câu tiếptheo so sánh hai cách sống: “Ta dại ta tìmnơi vắng vẻ, Người khôn người đến chốn lao xao”. “Ta” đây là NguyễnBỉnh Khiêm và những người cùng chí hướng như ông. “Người” đây là đám vuachúa, quan lại đương thời. “Nơi vắng vẻ” là cuộc sống giữa thiên nhiên,xa cách xã hội ồn ào, lộn xộn, do đó không phải bon chen, cầu cạnh nên tâm hồnđược thoải mái. “Chốn lao xao” là chốn triều đình, chốn cửa quyền có lâuđài, bổng lộc hậu hĩ nhưng phải cạnh tranh quyết liệt. Ngày xưa, Nguyễn Trãi đãnói về sự nguy hiểm của chốn này: “Miệng thế nhọnhơn chông mác nhọn, Lòng người quanh nữa nước non quanh”. Vậy là “khôn”mà thành “dại”; “dại” mà thành “khôn”. Thể bình đối tạonên ấn tượng về sự tương phải sâu sắc giữa “ta” và “người”. Đọcđến đây, ai cũng có cảm tưởng như cụ Trạng Trình đang mỉm một nụ cười châm biếmnhững người gọi là “khôn”. Nối tiếp Nguyễn Bỉnh Khiêm, về sau Lê HữuTrác - tác giả Thượng Kinh ký sự - cũng không ra làm quan, sống ở quê nhà và tựgọi là Lãn Ông - tức ông già lười nhác, lười nhác về mặt công danh. Hai câu luận nóivề sinh hoạt của tác giả: “Thu ăn măngtrúc, đông ăn giá, Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”. Như vậy là nhàthơ đã có một cuộc sống nền nếp, ổn định mùa nào thức ấy, mùa nào thú ấy. Măngtrúc và giá xét cho cùng chỉ là những món ăn đạm bạc. Nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêmlại tỏ ra mãn nguyện về cuộc sống như thế vì nó hợp với người quân tử: cầuđạo, bất cầu thực. Trong bài “Hàn Nho phong vị phú”, Nguyễn Công Trứ cũngnói: “Ngày ba bữa vỗbụng rau bình bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no”. Nhà Nho hướng vềmột cuộc sống tinh thần cao đẹp mà coi thường sự thiếu thốn về vật chất. Thanhđạm mà thanh cao. Hai câu kết kháiquát lên một tầm cao triết lí về cách sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Rượu đến cộicây ta sẽ uống, Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”. Nhà thơ lấy điểntích Thuần Vu Phần, một viên tướng đời Đường, vì chán công danh, xin từ chức,về nhà uống rượu làm khuây. Một lần say, ngủ bên gốc cây hòe, chiêm bao đượclàm phò mã, có cuộc đời rất phú quý. Tỉnh dậy thì ra đang nằm cạnh tổ kiến bêngốc cây hòe ! Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng giống như Thuần Vu Phần, coi phú quý chỉlà chuyện chiêm bao, chuyện hão huyền, vô nghĩa, không đeo đuổi nó và an tâmvới cuộc sống bên bến Tuyết Giang. “Nhàn” làbài thơ có nghệ thuật điêu luyện. Từ ngữ giản dị, phần lớn là thuần Việt. Hìnhảnh cô đọng, đối ngẫu chặt chẽ. Nó đánh dấu một bước tiến của thơ Nôm Đườngluật ở nước ta trong thế kỉ XVI. Bài thơ có nộidung sâu sắc. Xã hội phong kiến Việt Nam hồi thế kỷ XVI đang chìm trongkhủng hoảng trầm trọng đã khiến nhà thơ chán ghét, tìm cách xa lánh nó, sốngtrong cảnh nhàn để giữ cho tâm hồn thanh cao. “Nhàn” mà trong sạch, cao quý, vìđó là một nét đẹp của tâm hồn kẻ sĩ thanh cao “Như nhật trung thiên”vằng vặc. Đây là tác phẩmtiêu biểu cho phong cách thơ triết lí của Nguyễn Bỉnh Khiêm: thiên về nhậnxét, phân tích, khái quát - lối thơ của những nhà tư tưởng lớn.
|