Advertisements
Bài làm 1:
Tô Hoài là một trong những tấm gương sáng về tinh thần lao động sáng tạo, về công phu rèn luyện tay nghề của một người viết văn xuôi ở Việt Nam.
Ông đã có hơn nữa thế kỷ cầm bút. Ông đã được chủ tịch nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I -1996). Nhà văn đã gởi đến chúng ta một khối lượng tác phẩm nhiều đến mức đáng khâm phục: hơn 100 quyển sách với nhiều thể loại klhác nhau. Tuy nhiên những trang viết thực sự đạt chất lượng cao của cây bút này thể hiện ở ba mảng đề: đề tài miền núi Tây Bắc, đề tài vùng quen thành Hà Nội và các đề tài dành cho thiếu nhi. Chỉ xét riêng về đề tài miền núi Tây Bắc, truyện ngắn Vợ Chồng A Phủ trong tập truyện Tây Bắc (1953) là một thành tựu nổi bật của Tô Hoài. Trong tác phẩm này, nhà văn đã xây dựng thành công xuất sắc hình tượng nhân vật Mỵ, đặc biệt là đoạn cô bị bắt làm dâu gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra đến khi trốn khỏi Hồng Ngài.
Trước hết, chúng ta thấy Mỵ là một cô gái con nhà nghèo, xinh đẹp, ham sống, có đời sống tinh thần phong phú. Ngày xưa, bố Mỵ lấy mẹ Mỵ không có đủtiền cưới, phải đến vay nhà thống lý, bố của Pá Tra bây giờ. Mỗi năm đem nộp lãi cho chủ nợ một nương ngô. Đến tận khi hai vợ chồng về già rồi mà cũng chưa tra được nợ. Người vợ chết rồi cũng chưa trả hết nợ. Nhưng đó không phải là lý do để các chàng trai tốt bụng xa Mỵ. Trái lại, đến tuổi yêu đương, Mỵ được nhiều chàng trai mê say vì sắc đẹp. vì phẩm hạnh, suốt đêm đứng thổi sáo xung quanh vách hoặc thổi sáo đi theo Mỵ. Và bản thân Mỵ cũng thổi sáo giỏi, hát hay. Mỗi khi tiếng sáo vọng lại, lòng Mỵ cũng thiết tha bổi hổi rồi ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi. Mặc dù ham sống như thế nhưng có lúc Mỵ muốn tự kết liễu cuộc đời mình trong lần trốn về nhà bố. Thật ra, vì ham sống nên Mỵ không chấp nhận kiếp sống tủi nhục, chết ngay trong cõi sống. Nhưng với Mỵ, thời điểm ấy, cái chết là phương tiện để giải thoát chứ không phải là mục đích của Mỵ.
Mặt khác, Mỵ là cô gái sớm gặp bất hạnh, đau khổ đến cùng cực đồng thời còn là một nạn nhân của sự đầu độc, áp chế về tinh thần. Vào một đêm khuya, Mỵ nghe tiếng gõ vách mà cứ ngỡ là tiếng hò hẹn của người yêu, Mỵ bèn nhấc tấm vách gỗ thì bị A Sử bắt về làm vợ, làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra. Bao nhiêu mộng đẹp của lứa tuổi xuân thì mơn mởn bị chôn vùi. Sựtrinh trắng của người con gái bị A Sử cướp đoạt. Mỵ đau buồn có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mỵ cũng khóc. Mỵ đã hái lá ngón ở trong rừng, giấu trong áo rồi trốn về nhà lạy chào cha lần cuối để tự tử. Nghe lời than vãn, phân trần của người cha ốm yếu, Mỵ không đành chết bởi lẽ Mỵ chết thì bố Mỵ còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ nữa. cho nên, Mỵ đành phải trở lại nhà thống lý để làm nô lệ. Mỵ bị giày xéo bị chà đạp gần như chỉ còn là công cụ biết nói: Ở lâu trong cái khổ Mỵ quen khổ rồi. Bây giờ Mỵ tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa (…) Mỵ cuối mặt không nghĩ ngợi nữa. Mỵ bị cướp đoạt công sức một cách tàn nhẫn : con ngựa con trâu làm có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ. đàn bà con gái trong nhà naỳ thì vùi vào làmviệc cả ngày lẫn đêm. dường như Mỵ bị chai lì mọi cảm giác đến mất cả đời sống ý thức: mỗi ngày Mỵ càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Ở cái buồng Mỵnằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lổ vuông bằng bàn tay, lúc nào trông ra cũng trăng trắng không biết là sương hay nắng. Mỵ nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi. Sở dĩ Mỵ an phận như thế là do bọn thống lý Pá Tra đã đưa vào đầu óc cô những tư tưởng mê tín dị đoan khá cay độc.Ở dân tộc H’mông thời trước có những hủ tục: người con gái khi bị “trình ma” thì coi như cuộc đời trở nên đen tối từ lúc ấy: nếu chẳng may chồng chết thì người ấy phải làm vợ người khác trong nhà, có khi là một người anh chồng già lụ khụ, có khi là một người em chồng còn ở tuổi trẻ con. Và nếu chồng lại chết, lại vẫn phải ở với người đàn ông khác trong nhà ấy! . (Tô Hoài - cảm nghĩ về truyện Vợ chồng A Phủ). Do đó, Mỵ đã tin một cách tuyệt đối : ta là than đàn bà, nó đã bắt tâ về trình ma nhà nó rồi thì chỉ biết đợi ngày rủ xương ở đây thôi.
Thế nhưng, Mỵ là một cô gái có sức sống tiềm tang, một khao khát tự do, hạnh phúc mãnh liệt. không có sự bạo tàn nào vùi dập, trói buộc nổi, nhất là khi được ngoại cảnh tác động. khi mùa xuân tràn về các làng Mèo, trai gái tụ tập bên nhau nô đùa, nhảy múa, thổi sáo gọi bạn tình, Mỵ đã sống lại những chuỗi ngày tự do. Ngồi trong căn phòng tăm tối, Mỵ lén uống rượu uống ừng ực từng bát mà bên tai vẫn văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Mỵ thấy phơi phới trởlại, trong lòng đột nhiên vui sướng. dù chẳng năm nào A Sử cho cô đi chơi tết, nhưng cô rất khao khác được đi như bao cô gái khác cùng trang lứa. Hành động của Mỵ góc nhà lấy ống mỡ, xoắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng, chứng tỏ cô không cam chịu bong tối ngột ngạt, u ám của kiếp nô lệ phong kiến. trong phút giây, Mỵ đã quên đi cảnh ngộ thực tại để hành động theo tiếng gọi giục giã , tha thiết, rạo rực, cháy bỏng từ trái tim khát khao hạnh phúc, tình yêu của bản than mình, Mỵ quấn lại tóc, Mỵ với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách chuẩn bị đi chơi. Bất ngờ, A Sử đã tàn nhẫn trói đứng cô vào cột nhà, quấn luôn tóc trên cột. Nhưng cái kiểu trói thời trung cổ ấy của A Sử vẫn không dập tắt được long ham sống vẫn âm ỉ, tiềm tang trong tâm hồn Mỵ. Tiếng sáo du dương trầm bổng, tượng trưng cho sức sống mùa xuân của tuổi trẻ mạnh đến nỗi tuy Mỵ bị trói nhưng vẫn không biết mình đang bị trói. tiếng sáo đã đưa cô đi theo những cuộc chơi, những đám chơi, và Mỵ cố vùng bước đi trong cảnh bi thảm: tay chân đau không cựa được. tuy cả đêm ấy Mỵ phải trói đứng, khắp người bịdây trói thít lại, đau nhức nhưng trong long cô vẫn nồng nàn tha thiết nhớ cuộc vui. Thật dữ dội làm sao cái sức sống ấy đặc biệt hình ảnh a Phủ bị trói đứng một lần nữa lại đánh thức nơi Mỵ nỗi tủi nhục của than phận “không bằng con ngựa” của mình đồng thời khơi dậy lòng trắc ẩn tiềm tang trong cô. A Phủ là một chàng trai tràn trề sinh lực, lao động giỏi, con nhà nghèo, bố mẹ chết sớm, lưu lạc đến Hồng Ngài làm thuê, do cùng bọn con trai làng sinh sự đánh nhau với A Sử vào dịp chơi tết. A Phủ bị “bắt sống, trói gô chân tay lại” khiêng về nhà Thống lý. Từ đó, anh phải đi ở trừ nợ cho nhà Pá Tra. Trong một lần chăn bò, chẳng may hổ ăn thịt mất một con bò, Pá Tra đẩy A Phủ vào cột, hai tay bắt ôm quặt lên. Rồi dây mây quấn từ chân lên vai, sang hôm sau Pá Tra quẳng thêm một vòng thọng lọng vào cổ. Thế là A Phủ không cúi, không còn lúc lắc được nữa”. Nhìn cảnh ngộ A Phủ lúc đầu, Mỵ hãy còn thái độ thản nhiên, sau đó, trông thấy thứ ngôn ngữ câm lặng phát ra từ dòng nước mắt của A Phủ, cô xúc động, thương cảm và đồng cảm với anh. Đồng thời, giọt nước mắt ấy như tiếng gọi thiêng liêng của tính giai cấp và ý thức phản kháng đối với Mỵ: Lúc ấy đã khuya. Trong nhà đã ngủ yên, Mỵ trở dậy thổi lửa. Ngọn lửa bập bùng sang lên, Mỵ lé mắt trông sang, thấy mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã đen lại. Nhìn thấy tình cảnh như thế, Mỵ chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mỵ , Mỵ cũng phải trói đứng như thế kia. Nhiều lần hóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. Trời ơi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Cỡ chừng này là đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Vì thế, Mỵ liền hành động một cách táo bạo, “phiến loạn” quyết liệt. Cô cởi trói cho A Phủ rồi cùng anh bỏ trốn khỏi Hồng Ngài, chạy sang Phiền Sa: Lúc ấy, trong cảnh nhà đã tối bưng, Mỵ rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt, nhưng Mỵ tưởng A Phủ đương biết có người bước lại. Mỵ rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ cứ thở phì từng hơi, không biết mê hay tỉnh. Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mỵ cũng hốt hoảng, Mỵ chỉ thì thào được một tiếng :”đi ngay…” rồi Mỵ nghẹn lại, A Phủ bỗng khụy xuống, không bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy. Mỵ đứng lặng trong bong tối.
Rồi Mỵ cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm, nhưng Mỵ vẫn băng đi. Mỵ đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy (…) và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi. “Nhân chi sơ tính bổn thiện”. Hành động trên đây có xuất phát từ tấm lòng “thương người như thể thương thân “, từ sự thôi thúc cấp bách của cảnh ngộ hiện tại, từ tiếng gọi thiêng liêng, bất tử của cuộc sống độc lập – tự do. Cô cởi trói cho A Phủ cũng là từ cởi trói xiềng xích đang đè nặng lên chính cuộc đời của mình, Cứu A Phủ là Mỵ đã cứu mình một lúc vượt qua hai tầng địa ngục đày đọa con người một cách dã man: tầng địa ngục phong kiến và tầng tầng địa ngục mê tín – thần quyền. Thật đáng biểu dương làm sao cho hình ảnh hai con người trẻtuổi, nhựa sống mãnh liệt bị phong kiến trói đứng rồi vùng dậy một cách quyết liệt bị phong kiến trói đứng rồi vùng dậy một cách quyết liệt, bật tung như quả bom to đang ra sức tung phá giữa khu vực cần phải hủy diệt. Đúng như một nhà nghiêng cứu văn học đã nhận xét: Không ai trói buộc được sự sống, kìm hãm được sự sống cũng như không ai nỡ trách bong hạnh nở vươn ra ngoài tường khi sắc xuân đầy rẫy ngoài trời. Tóm lại, Mỵ là một hình tượng nhân vật phụ nữ có tính chất điển hình cho mảng truyện viết về đề tài miền núi Tây Bắc dưới ách phong kiến và thực dân đô hộ của nhà văn Tô Hoài nói riêng cũng như của dòng văn học Việt Nam giai đoạn 1945-4975 nói chung.
Qua hình tượng nhân vật Mỵ, nhà văn Tô Hoài đã miêu tả thực trạng cuộc sống bị áp bức, đề nén, chà đạp đến cùng cực, nhàu nát của số phận những con người nhỏ bé nơi miền núi cao Tây Bắc, tố cáo, vạch trần tội ác của bọn phong kiến nơi ấy đồng thời phát hiện nhiều phẩm chất tốt đẹp của con người tập trung ngòi bút ngòi bút ngợi ca sức sống tiềm tang của họ. Đó cũng chính là giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo toát lên từ nhân vật trung tâm của thiên truyện hấp dẫn này.
Bài làm 2:
I . Mở bài
Tô Hoài là nhà văn lớn của nền văn xuôi hiện đại VN với số lượng tác phẩm đạt kỉ lục .Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn thành công nhất trong ba truyện ngắn viết về đề tài Tây Bắc của ông .Tác phẩm có một giá trị hiện thực và nhân đạo đáng kể . Truyện viết về cuộc sống của người dân lao động vùng núi cao, dưới ách thống trị tàn bạo của bọn thực dân phong kiến miền núi . Đặc biệt truyện đã xây dựng thành công nhân vật Mị , qua đó ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, sức sống tiềm tàng và khả năng đến với cách mạng của nhân dân Tây Bắc .
![]()
II. Thân bài
Vợ chồng A Phủ in trong tập truyện Tây Bắc (1954). Tập truyện được tặng giải nhất- giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam 1954- 1955.Tác phẩm ra đời là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn cùng với bộ đội giải phóng Tây Bắc năm 1952 .
Vợ chồng A Phủ mở đầu bằng cách giới thiệu nhân vật Mị ở trong cảnh tình đầy nghịc lý và cuốn hút độc giả :
“Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa . Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi” .
Cách giới thiệu tạo ra những đối nghịch về một cô gái âm thầm lẻ loi, âm thầm như lẫn vào các vật vô tri: cái quay sợi, tảng đá, tàu ngựa ; cô gái là con dâu nhà thống lí quyền thế, giàu có nhưng sao mặt lúc nào “buồn rười rượi”. Khuôn mặt đó gợi ra một số phận đau khổ , bất hạnh nhưng cũng ngầm ẩn một sức mạnh tiềm tàng .
Mị trước đó vốn là một người con gái đẹp . Mị có nhan sắc, và có khả năng âm nhạc, cô giỏi sáo và giỏi , uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo” . Cô còn một tâm hồn tràn đầy khát khao cuộc sống, khát khao yêu đương . Quả thế, Mị đã được yêu, và đã khát khao yêu, trái tim từng đã bao nhiêu lần hồi hộp trước trước âm thah hò hẹn của người yêu .
Nhưng người con gái tài hoa miền sơn cước đó phải chịu một cuộc đời bạc mệnh . Để cứu nạn cho cha, cuối cùng cô đã chịu bán mình, chịu sống cảnh làm người con dâu gạt nợ trong nhà thống lí .
Tô Hoài đã diễn tả nỗi cực nhọc về thể xác của người con gái ấy, con người với danh nghĩa là con dâu , nhưng thực chất chính là tôi tớ . Thân phận Mị không chỉ là thân trâu ngựa, “Con trâu con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái ở cái nhà ngày thì vùi vào việc làm cả ngày lẫn đêm” .
Song nhà văn còn khắc hoạ đậm nét nỗi đau khổ về tinh thần của Mị . Một cô Mị mới hồi nào còn rạo rực yêu đương, bây giờ lặng câm , “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa” . Và nhất là hình ảnh căn buồng Mị, kín mít với cái cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, Mị ngồi trong đó trông ra lúc nào cũng thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng . Đó quả thực là một thứ địa ngục trần gian giam hãm thể xác Mị, cách li tâm hồn Mị với cuộc đời, cầm cố tuổi xuân và sức sống của cô . Tiếng nói tố cáo chế độ phong kiến miền núi ở đây đã được cất lên nhân danh quyền sống . Cái chế độ ấy đáng lên án, bởi vì nó làm cạn khô nhựa sống, làm tàn lụi đi ngọn lửa của niềm vui sống trong những con người vô cùng đáng sống .
Mị đã từng muốn chết mà không được chết , vì cô vẫn còn đó món nợ của người cha . Nhưng dến lúc có thể chết đi, vì cha Mị không còn nữa thì Mị lại buông trôi , kéo dài mãi sự tồn taịi vật vờ . Chính lúc này cô gái còn đáng thương hơn . Bởi muốn chết nghĩa là vẫn còn muốn chống lại một cuộc sống không ra sống, nghĩa là xét cho cùng, còn thiết sống . Còn khi đã không thiết chết , nghĩa là sự tha thiết với cuộc sống cũng không còn, lúc đó thì lên núi hay đi nương, thái cỏ ngựa hay cõng nước… cũng chỉ là cái xác không hồn của Mị mà thôi .
Sức sống của Mị dường như mất đi . Nhưng bên trong cái hình ảnh con rùa lầm lũi kia dang còn một con người . Khát vọng hnạh phúc có thể bị vùi lấp , bị lãng quyên trong đáy sâu của một tâm hồn đã chai cứng vì đau khổ, nhưng không thể bị tiêu tan . Gặp thời cơ thuận lợi thì nó lại cháy lên. Và khát vọng hạnh phúc đó đã bất chợt cháy lên, thật nồng nàn và xót xa trong một đêm xuân đầy ắp tiếng gọi của tình yêu .
Bức tranh Hồng Ngài mùa xuân năm ấy có sức làm say đắm lòng người tuổi trẻ . Gió rét, sắc vàng ửng của cỏ tranh, sự biến đổi màu sắc kì ảo của các lòai hoa đẹp đã góp phần làm nên cuộc nổi loạn trong một tâm hồn đã bấy nhiêu năm tê dại vì đau khổ . Tác nhân quan trọng là hơi rượu . Ngày tết năm đó Mị cũng uống rượu, Mị lén uống từng bát , “uống ừng ực” rồi say đến lịm người đi . Cái say cùng lúc vừa gây sự lãng quên vừa đem về nỗi nhớ . Mị lãng quên thực tại (nhìn mọi người nhảy đồng , người hát mà không nghe, không thấy và cuộc rượu tan lúc nào cũng không hay) nhưng lại nhớ về ngày trước (ngày trước, Mị thổi sáo cũng giỏi …), và quan trọng hơn là Mị vẫn nhớ mình là một con người, vẫn có cái quyền sống của một con người : “Mị vẫn còn trẻ . Mị muốn đi chơi . Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết . Huống chi Mị và A Sử, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau” .
Nhưng tác nhân có tác dụng nhiều nhất trong việc dìu hồn Mị bềnh bồng về với những khát khao hạnh phúc yêu đương có lẽ vẫn là tiếng sáo bởi tiếng sáo là tiếng gọi của mùa xuân, của tình yêu và tuổi trẻ . Tiếng sáo rập rờn trong đầu Mị, nó đã trở nên tiếng lòng của người thiếu phụ .
Nhan vat Mi trong “Vo chong A Phu”
Mị đã thức dậy với sức sống tiềm tàng và cảm thức về thân phận . Cho nên trong thời khắc âý, ta mới thấy Mị đầy rẫy những mâu thuẫn . Lòng phơi phới nhưng Mị vẫn theo quán tính bước vào buồng , ngồi xuống giường, trông ra cái lỗ vuông mờ mờ trăng trắng . Và khi lòng ham sống trỗi dậy thì ý nghĩ đầu tiên là được chết ngay đi .
Nhưng rồi nỗi ám ảnh và sức sống mãnh liệt của tuổi xuân cứ lớn dần , cho tới khi nó lấn chiếm hẳn trọn bộ tâm hồn và suy nghĩ của Mị, cho tới khi Mị hoàn toàn chìm hẳn vào trong ảo giác : “Mị muốn đi chơi . Mị cũng sắp đi chơi” . Phải tới thời điểm đó Mị mới có hành động như một kẻ mộng du : quấn lại tóc , với thêm cái váy hoa, rồi rút thêm cái áo . Tất cả những việc đó , Mị đã làm như trog một giấc mơ, tuyệt nhiên không nhìn thấy A Sử bước vào, không nghe thấy A Sử hỏi “.
Rồi cái gì đến đã đến . A Sử trói Mị vào cột, rồi lẳng lặng khoác thêm vòng bạc đi chơi , bỏ mặc Mị trong trạng thái mộng du đang chìm đắm với những giấc mơ về một thời xuân trẻ, đang bồng bềnh trong cảm giác du xuân . Tâm hồn Mị đang còn sống trong thực tại ảo, sợi dây trói của đời thực chưa thể làm kinh động ngay lập tức giấc mơ của kẻ mộng du . Cái cảm giác về hiện tại tàn khốc, Mị chỉ cảm thấy khi vùng chân bước theo tiếng sáo mà tay chân đau không cựa được . Nhưng nếu cái mơ không đến một lần nữa thì sự tỉnh ra cũng vậy . Lại một giai đoạn chập chờn nữa giữa cái mơ và cái tỉnh, giữa tiếng sáo và nỗi đau nhức của dây trói và tiếng con ngựa đạp vách, nhai cỏ , gãi chân . Nhưng bây giờ thì theo chiều ngược lại, tỉnh dần ra, đau đớn và tê dại dần đi, để sáng hôm sau lại trở về với vị trí của con rùa nuôi trong câm lặng, mà còn câm lặng hơn trước .
Nhưng có lẽ sức sống của Mị bùng lên mạnh mẽ nhất là lúc Mị cởi trói cho A Phủ . Cũng như Mị, A Phủ là nạn nhân của chế độ độc tài phong kiến miền núi . Những va chạm mang đầy tính tự nhiên của lứa tuổi thanh niên trong những đêm tình mùa xuân đã đưa A Phủ trở thành con ở gạt nợ trong nhà thống lí . Và bản năng của một người con vốn sống gắn bó với núi rừng, ham thích săn bắn đã đẩy A Phủ tới hiện thực phũ phàng : bị trói đứng . Và chính hoàn cảnh bi thương đó đã đánh thức lòng thương cảm trong con người Mị . Nhưng tình thương đó không phải tự nhiên bùng phát trong Mị mà là kết quả của một quá trình đấu tranh giằng xé trong thế giới nội tâm của cô . Mấy hôm đầu Mị vô cảm, thờ ơ với hiện thực trước mắt : “A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi” . Câu văn như một minh chứng sự tê dại trong tâm hồn Mị . Bước ngoặt bắt đầu từ những dòng nước mắt :“Đêm ấy A Phủ khóc . Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai lõm má đã xạm đen” . Và giọt nước mắt kia là giọt nước cuối cùng làm tràn đầy cốc nước . Nó đưa Mị từ cõi quên trở về với cõi nhớ . Mị nhớ mình đã từng bị trói, đã từng đau đớn và bất lực . Mị cũng đã khóc, nước mắt chảy xuống cổ, xuống cằm không biết lau đi được . A Phủ, nói đúng hơn là dòng nước mắt của A Phủ, đã giúp Mị nhớ ra mình, xót thương cho mình .
Và Mị đã nhớ lại mình, biết nhận ra mình cũng từng có những đau khổ, mới có thể thấy có người nào đó cũng khổ giống mình . Từ sự thương mình, Mị dần dần có tình thương với A Phủ, tình thương với một con người cùng cảnh ngộ . Nhưng nó còn vượt lên giới hạn thương mình : “Mình là đàn bà … chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi còn người kia việc gì mà phải chết ” . Mị cởi trói cho A Phủ để rồi bất ngờ chạy theo A Phủ . Lòng ham sống của một con người như được thổi bùng lên trong Mị, kết hợp với nỗi sợ hãi, lo lắng cho mình. Mị như tìm lại được con người thật , một con người còn đầy sức sống và khát vọng thay đổi số phận .
Nhà văn Tô Hoài đã viết về Mị với tất cả lòng yêu thương, thông cảm, và chỉ có lòng yêu thương thông cảm, Tô Hoài mới phát hiện ra vẻ đẹp tiềm tàng trong tâm hồn những con người ham sống như Mị .
III . Kết bài
Vợ chồng A Phủ qua việc khắc hoạ sâu sắc cuộc đời , số phận , tính cách Mị đã tố cáo hùng hồn, đanh thép những thế lực phong kiến , thực dân tàn bạo áp bức bóc lột, đọa đày người dân nghèo miền núi . Đồng thời nó cũng khẳng định khát vọng tự do hạnh phúc , sức sống mạnh mẽ và bền bỉ của những người lao động . Đặc biệt đề cao sự đồng cảm giai cấp, tình hữu ái của những người lao động nghèo khổ . Chính điều này đem lại sức sống và sự vững vàng trước thời gian của Vợ chồng A Phủ .
|