Advertisements
Đề: Cảm nhận của anh (chị) về 2 đoạn thơ sau:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
………… Sớm khuya bếp lửa người thương đi về” (Việt Bắc – Tố Hữu)
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
………… Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn” (Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)
Bài 1: Tháng 10 năm 1954, sau thắng lợi vẻ vang của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, trung ương Đảng và chính phủ rời Việt Bắc để trở về Hà Nội tiếp tục lãnh đạo phong trào cách mạng . Trước sự kiện đó Tố Hữu đã viết bài thơ Việt Bắc . Đây là bài thơ ân tình cách mạng, gọi lại những kỉniệm thân thiết và vẻ đẹp của Việt Bắc từ ngày đầu gian khổ chắt chiu xây dựng căn cứ địa cách mạng cho đến khi kháng chiến thắng lợi.
Chế Lan Viên là nhà thơ giàu tài năng và sáng tạo. Hơn một nửa thế kỉ làm thơ, cảm hứng thơ ca của ông dào dạt như một dòng sông vỗ sóng. Từ "Điêu tàn" đến "Ánh sáng và phù sa", hành trình thơ của Chế Lan Viên "từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui", vượt qua quá khứ nặng nề, u buồn,đến với cuộc đời, với nhân dân và đất nước. "Tiếng hát con tàu", được xuất bản năm 60, là bài thơ được gợi cảm hứng từ sự kiện cuộc vận động nhân dân miền xuôi lên tham gia xây dựng Tây Bắc. Bài thơ nói lên những kỉ niệm về Tây Bắc, nguồn cội của sáng tạo thơ ca. “Nhớ gì như nhớ người yêu …. Sớm khuya bếp lửa người thương đi về” Đoạn thơ nói lên lời của người ra đi khẳng định nỗi nhớ, niềm tin về Việt Bắc. Vì vậy, trước đó Tố Hữu có viết: “Mình đi mình có nhớ mình Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa” Trong cuộc chia tay đầy lưu luyến này, người ở lại nhắn nhủ người ra đi nhớ những kỉ niệm xưa của buổi đầu cách mạng, trong kháng chiến chống Pháp, những địa danh lịch sự. Khi nghe người Việt Bắc hỏi thì người cán bộ đã trả lời khẳng định long thủy chung của mình với Việt Bắc. Trong bài thơ khác, Tố Hữu cũng có viết: “Mẹ cha thì nhớ thương mình Mình đi mình nhớ người tình xa xôi” Và sau lời khẳng định là những hình ảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc đẹp như khúc hát đồng quê: nào là “trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”. Nhớ về những hình ảnh sinh hoạt, nhớ về từng bản khói cùng sương, sớm khuya bếp lửa: đó là những hình ảnh rất đặc trưng của khung cảnh núi rừng Tây Bắc thơ mộng. Đây là một trong những đoạn thơ tiêu biểu của Việt Bắc, qua giọng điệu ca dao ngọt ngào, đoạn thơ là một hoài niệm của người cán bộ ra đi nhớ về con người và thiên nhiên Việt Bắc. Qua đó thể hiện, khẳng định ân tình thủy chung của người cách mạng, không phụ nghĩa đồng bào, không quên những ngày kháng chiến gian khổ.
"Tiếng hát con tàu" là khúc hát say mê mang hương vị và tình yêu cuộc đời. Đến với Tây Bắc là trở về với nhân dân -những con người tình nghĩa. Đến với Tây Bắc là đến với "Xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng". Bao kỉ niệm đầy ắp trong lòng về những con người, về những miền quê xa lạ. Trong hoài niệm, nhà thơ ân tình hát lên. Đây là đoạn thơ tiêu biểu của bài thơ:
"Nhớ bảnsương giăng, nhớ đèo mây phủ ...
Tìnhyêu làm đất lạ hóa quê hương". Nỗi nhớ Tây Bắc đầy vơi trong lòng. Nhớ núi rừng, nhớ làng bản, nhớ những con đèo mây trắng phủ mờ, nhớ những "Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất". "Bản sương giăng" và "đèo mây phủ" gợi tả cảnh núi rừng mịt mù, xa xôi nghìn trùng cách trở. Hai chữ "nhớ" trong vần thơ diễn tả sự tha thiết bồi hồi. Câu thơ cân xứng qua hai vế tiểu đối: "Nhớ bản sương giăng nhớ đèo mây phủ" với bao ân tình thương nhớ. "Khi ta ở" rồi "khi ta đi" đã trải qua nhiều năm tháng? Hai cảnh ngộ, hai hoàn cảnh sống đã đổi thay. Thời gian và không gian, ở và đi, quá khứ và hiện tại không làm cho lòng dạ đổi thay, trái lại "đất đã hóa tâm hồn". "Nơi đất ở" trước đây, nay có sự chuyển hóa kì lạ: "Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn". Kẻ vô tâm và bất nghĩa thì "đi" là hết: "nơi đất ở" chỉ còn lại sự dửng dưng mà thôi. Có sống hết mình, sống đẹp với "nơi đất ở" thì khi xa cách, lòng ta mới mang theo bao kỉ niệm vui, buồn sâu sắc. Câu thơ là tiếng nói tình nghĩa ở đời, là niềm tự hào về cách ăn ở thủy chung, sắt son. Tây Bắc - mảnh đất thiêng liêng, anh hùng đã mang tình sâu nghĩa nặng đối với nhà thơ và bao chiến sĩ. Bao chiến sĩ đã đem xương máu thắp sáng ngọn lửa Điện Biên thần kì. Mảnh đất ấy có bao con người tình nghĩa, để thương để nhớ trong lòng ta.
Đoạn thơ trên cho thấy vẻ đẹp văn chương và cốt cách thi sĩ của Chế Lan Viên. Thơ ông hàm súc, mang chất trí tuệ lại được trang phục bằng một thứ ngôn ngữ giàu hình tượng và truyền cảm. Giọng thơ tha thiết, đằm thắm. Đến với nhân dân, sống trong lòngnhân dân là trở về cội nguồn hạnh phúc để cống hiến và sáng tạo. Bài học về tình nghĩa, về thủy chung trong tình yêu được diễn tả một cách thấm thía. Những tình cảm sâu sắc ấy và chân thành ấy là tấm lòng của thi sĩ đối với đất nước vànhân dân được diễn tả một cách tài hoa, giàu cá tính sáng tạo trong bài thơ "Tiếng hát con tàu".
Cả hai đoạn thơ đều viết về nỗi nhớ. Nhớ về cuộc sống, về con người, về mảnh đất tình nghĩa, nhớ những kỉ niệm khi ở đó, cho dù ra đi, nhưng tác giả, nhân vật trữ tình, người cán bộ không thể nào quên.
Cùng nói về nỗi nhớ Tây Bắc nhưng hai nhà thơ có cách biểu hiện khác nhau: nỗi nhớ của Tố Hữu hiện lên rất cụ thể, rõ nét chứng tỏ sự gắn bó sâu sắc, thiết tha. Bài thơ kết cấu theo lối hát giao duyên đối đáp nam nữ nhưng lại thể hiện những an tình cách mạng và vì thế, bài thơ như một chất men say ngấm sâu vào lòng người, trở nên gần gũi, đằm thắm hơn với những cung bậc lan tỏa của nó.
Còn về nỗi nhớ của Chế Lan Viên lại gắn với những suy tư triết lí rất đặc trưng theo kiểu riêng của Chế Lan Viên. Nỗi nhớ ấy nằm trong mạch cảm xúc về ân tình cách mạng “uống nước nhớ nguồn”. Chất liệu dệt nên nỗi nhớ, suy tư là những hình ảnh khái quát được thể hiện bằng những ngôn từ giản dị, cô đúc như những định nghĩa, châm ngôn.
Sử dụng những hình ảnh thơ giản dị kết hợp với thể thơ lục bát, Tố Hữu đã thành công khi khái quát nỗi nhớ về Việt Bắc, còn ở Tiếng hát con tàu, thể thơ tám chữ tự do đã mang đến cho người đọc, giúp người đọc nhận ra vẻ đẹp rất riêng mang tính triết lý của thơ Chế Lan Viên.
Việt Bắc khép lại bằng lời khẳng định Việt Bắc mãi là cái nôi, là quê hương của phong trào cách mạng, nơi đặt niềm tin tưởng và hi vọng của người Việt Nam trên khắp mọi miền của Tổ quốc, đặc biệt là những nơi còn u ám quân thù. Việt Bắc là bài thơ tiêu biểu nhất của hồn thơ Tố Hữu viết về nghĩa tình cách mạng. Bài thơ không chỉ là lời chia tay dạt dào xúc cảm mà còn là lời khẳng định đinh ninh sự thuỷ chung son sắt của những người cách mạng, là khúc ca bất tận của tình nghĩa được viết với giọng điệu vừa trữ tình ngọt ngào, vừa sôi nổi thiết tha, trong sáng.
Tiếng hát con tàu là một trong những khổ thơ để lại nhiều ấn tượng sâu sắc nơi người đọc, thể hiện rõ phong cách nghệ thuật và hồn thơ Chế Lan Viên. Đoạn thơ khái quát được nỗi nhớ sâu sắc về Tây Bắc -mảnh đất mười năm kháng chiến, đã thắp lên ngọn lửa nghìn năm sau còn đủ sức soi đường. Khổ thơ có kết cấu đặc sắc đi từ hình ảnh cụ thể đến khái quát, từ cảm xúc đến suy tư. Nó là một sự phát hiện đặc sắc về quy luật của tình cảm, tâm hồn con người. |