Trường Mở - Cộng Đồng Học Sinh Việt Nam

 Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Xem: 503|Trả lời: 4
In Chủ đề trước Tiếp theo

Tài liệu ôn thi đh môn sử

Nhảy đến trang chỉ định
Chủ nhà
Advertisements
TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI NƯỚC TA TỪ SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ NHẤT ĐẾN ĐẦU NĂM 1930


Câu 1: Chính sách khai thác thuộc địa lần thứ hai của Pháp ở Đông Dương (mà chủ yếu là Việt Nam)?


1. Hoàn cảnh khai thác (lý do vì sao TDP tiến hành khai thác?)

- Trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918), Pháp là nước thắng trận nhưng bị tàn phá nặng nề, nền kinh tế bị kiệt quệ.
- Để bù đắp các thiệt hại to lớn do chiến tranh gây ra, bọn tư bản độc quyền ở Pháp vừa tăng cường bóc lột nhân dân lao động trong nước, vừa ráo riết đẩy mạnh khai thác các thuộc địa. ở Đông Dương, chúng thi hành “Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai”.

2. Nội dung của chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai
* Kinh tế:     
- Sau chiến tranh, Pháp đã tăng cường đầu tư để mở rộng sản xuất và bóc lột được nhiều hơn. Chỉ trong 6 năm (1924-1929), tổng số vốn đầu tư vào Đông Dương tăng gấp 6 lần so với 20 năm trước chiến tranh (1898-1918). Chúng bỏ vốn nhiều nhất vào nông nghiệp và công nghiệp khai mỏ .

- Nông nghiệp: Từ 1927, số vốn đầu tư vào nông nghiệp lên đến 400 triệu Frăng (gấp 10 lần trước chiến tranh). Năm 1918, diện tích trồng cao su là 15.000 ha thì đến năm 1930 là 120.000 ha. Nhiều công ty cao su lớn ra đời: Công ty đất đỏ, công ty Mísơlanh, công ty Trồng cây nhiệt đới.....

- Công nghiệp: Chúng tập trung vào ngành công nghiệp khai thác (chủ yếu là khai thác than đá). Các công ty than có từ trước được đầu tư mở rộng. Đồng thời thành lập nhiều công ty than mới như: công ty than Hạ Long-Đồng Đăng, công ty than và kim khí Đông Dương, Công ty than Tuyên Quang, công ty than Đông Triều...
Bên cạnh đó, Pháp cũng mở thêm các cơ sở công nghiệp chế biến như: nhà máy sợi Hải Phòng, Nam Định; rượu Hà Nội, Nam Định, Hà Đông; diêm Hà Nội, Hàm Rồng, Bến Thuỷ; đường Tuy Hoà; gạo Chợ Lớn…

- Thương nghiêp: Pháp độc chiếm thị trường Đông Dương, nắm quyền xuất nhập khẩu và các nguồn thuế, đánh thuế nặng vào hàng hoá của các nước khác để làm mất khả năng cạnh tranh với hàng hoá của Pháp. Vì vậy, hàng hoá của Pháp nhập vào Việt Nam tăng 62% sau chiến tranh so với trước chiến tranh là 37%.

- Giao thông vận tải, cũng được đầu tư để phát triển thêm, phục vụ đắc lực cho khai thác và chuyên chở nguyên vật liệu cũng như cho lưu thông hàng hoá trong nội địa và với nước ngoài. Đường sắt xuyên Đông Dương được nối liền thêm nhiều đoạn Đồng Đăng - Nà Sầm ( 1922), Vinh - Đông Hà ( 1927).

- Tài chính: Ngân hàng Đông Dương đại diện thế lực của tư bản tài chính Pháp có cổ phần ở khắp các công ty, xí nghiệp lớn, do đó về thực tế nó đã nắm quyền chỉ huy các ngành kinh tế Đông Dương.
- Thực dân Pháp còn bóc lột nhân dân ta bằng cách đánh thuế nặngnhư: thuế ruộng đất, thuế thân, thuế rượu, thuế muối, thuế thuốc phiện và hàng trăm thứ thuế khác. Chính nhờ vào các khoản thu đó mà ngân sách Đông Dương từ 1912 đến 1930 đã tăng gấp 3 lần.

* Chính trị:
- Sau chiến tranh, chính sách cai trị thuộc địa của thực dân Pháp vẫn không hề thay đổi. Chúng thi hành chính sách chuyên chế triệt để, mọi quyền hành trong nước đều thâu tóm trong tay người Pháp, vua quan nhà Nguyễn chỉ là bù nhìn tay sai. Nhân dân không được hưởng một chút quyền tự do dân chủ nào, mọi hoạt động yêu nước đều bị thẳng tay đàn áp, khủng bố.
Thực dân Pháp thực hiện chính sách "chia để trị" như: chia nước ta thành 3 kỳ với 3 chế độ khác nhau, chia rẽ đồng bào lương và đồng bào giáo, các dân tộc đa số với thiểu số.
- Mặt khác, chúng dụ dỗ và mua chuộc  nhằm tạo dựng và duy trì đội ngũ tay sai làm chỗ dựa cho nền thống trị như mở rộng Hội đồng quản hạt Nam Kỳ, lập Viện dân biểu Bắc Kỳ, Viện dân biểu Trung Kỳ cho một số địa chủ và tư sản người Việt tham gia nhằm lôi kéo họ đi với chúng.

* Văn hoá - giáo dục:
Thi hành chính sách văn hoá nô dịch, nhằm gây tâm lý tự ti, vong bản, ra sức khuyến khích các hoạt động mê tín, dị đoan, cờ bạc, rượu chè...trong nhân dân. Trường học chỉ mở nhỏ giọt, chủ yếu là trường tiểu học, các trường trung học chỉ mở ở các thành phố; Một số trường đại học và cao đẳng thực chất là trường chuyên nghiệp. Rõ ràng là đế quốc Pháp chỉ cần đào tạo một đội ngũ công chức và công nhân lành nghề phục vụ cho công cuộc khai thác, bóc lột và củng cố bộ máy cai trị ở thuộc địa.
Sách báo xuất bản nhằm tuyên truyền chính sách "khai hoá" của bọn thực dân và gieo rắc ảo tưởng hoà bình hợp tác với bọn thực dân cướp nước và bọn vua quan bù nhìn bán nước.
Câu 2: Xã hội Việt Nam phân hoá như thế nào dưới tac động của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của Pháp?

- Do tác động của chính sách khai thác được đẩy mạnh trên quy mô lớn, sự phân hoá giai cấp trong xã hội Việt Nam ngày càng sâu sắc. Mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp xã hội có địa vị và quyền lợi khác nhau nên cũng có thái độ chính trị khác nhau trong cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp ngày càng phát triển.

* Giai cấp địa chủ phong kiến
Là chỗ dựa của chủ nghĩa đế quốc. Sự cấu kết giữa giai cấp địa chủ phong kiến và đế quốc ngày càng chặt chẽ tạo cơ hội cho chúng chia nhau chiếm đoạt ruộng đất của nông dân, đồng thời đẩy mạnh bóc lột về kinh tế và tăng cường kìm kẹp, đàn áp về chính trị đối với nông dân.
Tuy vậy, cũng có một bộ phận, nhất là địa chủ vừa và nhỏ có tinh thần yêu nước nên có tham gia các phong trào yêu nước khi có điều kiện.

* Giai cấp tư sản:
- Giai cấp tư sản chính thức ra đời sau chiến tranh thế giới thứ nhất (trong đợt khai thác thuộc địa lần thứ hai). Phần lớn ở họ là những tiểu chủ đứng trung gian làm thầu khoán, cung cấp nguyên vật liệu hay đại lý hàng hoá cho tư bản Pháp. Khi có được một chút vốn, họ đứng ra kinh doanh độc lập và trở thành nhà tư bản (như Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Hữu Thu...).
- Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, các nhà tư bản Việt Nam bỏ vốn kinh doanh vào một số ngành công thương tiêu biểu như: Công ty Tiên Long thương đoàn (Huế), Hưng hiệp hội xã (Hà Nội), xưởng chế xà phòng của Trương Văn Bền (Sài Gòn, công ty nấu rượu Nam Đồng ích (Thanh Hoá)...Cũng có người bỏ vốn vào khai thác mỏ (Bạch Thái Bưởi) và trồng cao su (Lê Phát Vĩnh, Trần Văn Chương...); Ngân hàng Việt Nam do một số địa chủ và tư bản Nam Kỳ bỏ vốn thành lập.
- Giai cấp tư sản Việt Nam mới ra đời đã gặp phải sự chèn ép của tư bản Pháp nên số lượng thì ít, thế lực kinh tế yếu, không thể cạnh tranh nổi với tư bản Pháp. Phát triển đến một chừng mực nào đó thì họ phân hoá thành hai bộ phận:
+ Tầng lớp tư sản mại bản, có quyền lợi gắn liền với đế quốc nên cấu kết chặt chẽ về chính trị với chúng.
+ Tàng lớp tư sản dân tộc, có khuynh hướng kinh doanh độc lập nên ít nhiều có tinh thần dân tộc dân chủ chống đế quốc và phong kiến, nhưng cũng có thái độ không kiên định, dễ thoả hiệp, cải lương khi đế quốc mạnh.

* Giai cấp tiểu tư sản:   
- Gồm những người buôn bán nhỏ, chủ xưởng nhỏ, viên chức, trí thức, học sinh, sinh viên.
- Sau chiến tranh thế giới I, do sự phát triển của các ngành kinh tế, sự mở rộng các cơ quan hành chính, văn hoá, giáo dục nên giai cấp tiểu tư sản đã ra đời.
- Giai cấp tiểu tư sản cũng bị tư bản Pháp chén ép, bạc đãi, khinh rẻ, đời sống bấp bênh, dễ bị xô đẩy vào con đường phá sản, thất nghiệp. Trong đó, có bộ phận trí thức, sinh viên, học sinh lại có điều kiện tiếp xúc với các trào lưu tư tưởng văn hoá tiến bộ bên ngoài nên có tinh thần hăng hái cách mạng và là một lực lượng quan trọng trong cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta.

* Giai cấp nông dân:
- Giai cấp nông dân chiếm trên 90% dân số, bị đế quốc, phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề bằng các thủ đoạn sưu cao, thuế nặng, tô tức, phu phen, tạp dịch, cướp đoạt ruộng đất. Họ bị bần cùng hoá và phá sản trên quy mô lớn, nhưng chỉ có một bộ phận nhỏ rời làng đi tìm việc làm ở các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền, còn phần đông vẫn phải quay về làng sống cuộc đời tá điền cực nhọc. Trong hoàn cảnh đó, giai cấp nông dân Việt Nam là lực lượng hăng hái và đông đảo nhất của cách mạng.

* Giai cấp công nhân:
- Được hình thành trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ I và phát triển mạnh trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ II. Trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất, công nhân có khoảng 10 vạn,  sau chiến tranh tính đến năm 1929 lên tới 22 vạn. Họ phần lớn tập trung tại các trung tâm kinh tế quan trọng của đế quốc Pháp là các vùng mỏ, đồn điền cao su, và các thành phố như Hà Nội, Sài Gòn - Chợ Lớn, Hải Phòng, Nam Định.
Mặc dù sinh ra ở một nước thuộc địa nhưng giai cấp công nhân Việt Nam cũng có những đặc điểm chung của công nhân quốc tế: là giai cấp đại diện cho một lực lượng sản xuất tiến bộ nhất của xã hội, điều kiện lao động và sinh sống tập trung...Bên cạnh đó, giai cấp công nhân Việt Nam còn có những đặc điểm riêng như: kế thừa được truyền thống yêu nước anh hùng và bất khuất của dân tộc; chịu ba tầng áp bức bóc lột của đế quốc, phong kiến, tư sản người Việt; có quan hệ tự nhiên gắn bó với nông dân. Đặc biệt, giai cấp công nhân Việt Nam vừa mới lớn lên đã tiếp thu ngay được ảnh hưởng của cách mạng tháng Mười Nga và của chủ nghĩa Mac - Lênin.

  • Hoàn cảnh và đặc điểm ra đời và phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam làm cho giai cấp đó sớm trở thành một lực lượng chính trị độc lập, thống nhất, tự giác trong cả nước, để trên cơ sở đó nhanh chóng vươn lên nắm quyền lãnh đạo cách mạng nước ta.
  • Như vậy, dưới tác động của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp và do sự phát triển của bản thân xã hội Việt Nam mà xã hội nước ta có sự chuyển biến to lớn. Một hệ quả của sự chuyển biến ấy là sự ra đời, lớn mạnh của các giai cấp vô sản, tiểu tư sản và tư sản có vai trò khác nhau trong phong trào yêu nước, chống Pháp ở Việt Nam theo những khuynh hướng tư sản và vô sản.



Thread Hot
[Văn học nước ngoài] Phân tích bài thơ "
[Văn học Việt Nam] Phân tích bài thơ “Đâ
[Ôn thi ĐH - CĐ] Phân tích bức tranh phố huy
[Triết Lý Cuộc Sống] Những Câu Nói Hay Về
[Văn học Việt Nam] Phân tích bài thơ "Chiề
[Văn học Việt Nam] Phân tích bài thơ "Tươ
[Ôn thi ĐH - CĐ] Ôn luyện lí thuyết vật lý
[Văn học nước ngoài] Hình ảnh con đường
[Lớp 6] Đề thi thử môn toán học kì 2
[Lớp 11] Sinh trưởng và phát triển ở Động
[Lịch sử Thế giới] Những đặc điểm cơ b
[Lịch sử Việt Nam] Cuộc kháng chiến chống

Sofa
 Tác giả| Đăng lúc 22-8-2012 21:00:36 | Chỉ xem của tác giả
PHONG TRÀO YÊU NƯỚC VÀ DÂN CHỦ Ở VIỆT NAM TỪ SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ NHẤT ĐẾN ĐẦU NĂM 1930


Câu 1 : Phong trào yêu nước của tư sản và tiểu tư sản sau chiến tranh thế giới thứ nhất đã diễn ra như thế nào? Kết quả, ý nghĩa?
- Sau chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918), phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ với nhiều hình thức phong phú sôi nổi. Hai giai cấp tư sản và tiểu tư sản thành thị bắt đầu bước lên vũ đài chính trị
- Trong lúc chủ nghĩa Mác – Lênin chưa phổ biến sâu rộng ở Việt Nam thì tư tưởng dân chủ tư sản, nhất là chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn tiếp tục tràn vào Việt Nam và chi phối không ít phong trào theo khuynh hướng dân chủ tư sản.

1. Phong trào yêu nước dân chủ công khai
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, phong trào dân tộc dân chủ ở nước ta đang trên đà phát triển mạnh mẽ, với sự tham gia của nhiều tầng lớp nhân dân, dưới nhiều hình thức phong phú và sôi nổi trước hết là ở các thành thị.

a. Phong trào của giai cấp tư sản dân tộc
- Giai cấp Tư sản dân tộc muốn nhân đà làm ăn thuận lợi trong mấy năm chiến tranh vì sự cạnh tranh của tư bản Pháp có phần được nới lỏng nay muốn vươn lên giành lấy vị trí khá hơn trong nền kinh tế Việt Nam nhưng bị thực dân Pháp chèn ép.
- Họ đã tổ chức những phong trào chấn hưng nội hoá, bài trừ ngoại hoá (1919), đấu tranh chống độc quyền thương cảng Sài Gòn và độc quyền xuất khẩu lúa gạo Nam Kỳ của tư bản Pháp (1923)...
- Cùng với những hoạt động kinh tế, giai cấp tư sản cũng đã sử dụng báo chí để bênh vực quyền lợi cho mình. Một số tư sản và địa chủ trong Nam (đại biểu là Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long ...) đã thành lập Đảng Lập Hiến để tập hợp lực lượng, đưa ra một số khẩu hiệu đòi tự do dân chủ để tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của quần chúng mà làm áp lực đối với thực dân Pháp. Nhưng khi được thực dân Pháp nhượng bộ cho một ít quyền lợi như tham gia vào Hội đồng quản hạt Nam Kỳ và họ sẵn sàng thoả hiệp với chúng nên bị phong trào của quần chúng vượt qua.
=> Nói chung giai cấp tư sản Việt Nam sau chiến tranh đã có những cố gắng nhất định trong cuộc đấu tranh chống sự cạnh tranh chèn ép của tư bản nước ngoài. Tuy nhiên các cuộc đấu tranh này chủ yếu nhằm thoả mãn các yêu cầu tối thiểu về quyền tự do dân chủ, quyền bình đẳng trong kinh tế và hoạt động chính trị với tư bản Pháp, tức đấu tranh trong khuôn khổ chủ nghĩa cải lương tư sản.

b. Phong trào của giai cấp tiểu tư sản
- Các tầng lớp tiểu tư sản trí thức (gồm sinh viên trường CĐSP Hà Nội, học sinh và giáo viên các trường, viên chức, nhà văn, nhà báo... ) rất hăng hái tham gia đấu tranh. -- Họ được tập hợp lại trong các tổ chức chính trị như: Việt Nam nghĩa đoàn, hội Phục Việt, hội Hưng Nam, đảng Thanh niên ... với nhiều hoạt động phong phú và sôi động (mít tinh, bểu tình, bãi khoá ...). Họ đã ra những tờ báo tiến bộ: Chuông rè, An Nam trẻ, Người nhà quê... với các nhà xuất bản tiến bộ Nam đồng thư xã ( Hà Nội) Cường học thư xã ( Sài Gòn), Quan hải tùng thư ( Huế)....
- Đỉnh cao của phong trào là những sự kiện nổi bật có tiếng vang đó là: Việc đấu tranh đòi nhà cầm quyền Pháp thả Phan Bội Châu (11/1925) và đám tang Phan Châu Trinh (3/1926)
- Trong lúc ngọn lửa đấu tranh dân tộc đang bùng cháy thì 6/1924 tiếng bom của người thanh niên yêu nước Phạm Hồng Thái nổ vang tại Sa Diện (Quảng Châu - Trung Quốc ) mưu giết toàn quyền Đông Dương là Méc Lanh. Sự kiện này vừa có ý nghĩa mở màn cho thời đại đấu tranh mới của dân tộc, vừa có tác dụng cổ vũ, thúc đẩy phong trào tiến lên. “Việc đó tuy nhỏ nhưng nó báo hiệu thời đại đấu tranh dân tộc như chim én nhỏ báo hiệu mùa xuân”.
=> So với phong trào của giai cấp tư sản thì phong trào của tiểu tư sản diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ hơn thu hút đông đảo lực lượng tham gia hơn.

2. Tổ chức Việt Nam Quốc dân Đảng và cuộc khởi nghĩa Yên Bái
a. Tổ chức Việt Nam Quốc dân Đảng
* Sự thành lập
- Tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng được thành lập vào 25/12/1927. Cơ sở hạt nhân đầu tiên của Đảng là Nam đồng thư xã - một nhà xuất bản tiến bộ do Phạm Tuấn Tài lập ra vào đầu 1927, đã thu hút các thanh niên trí thức yêu nước. Lúc đầu, họ không có đường lối chính trị rõ rệt. Nhưng về sau do sự phát triển mạnh mẽ của phong trào dân tộc dân chủ và do ảnh hưởng các trào lưu tư tưởng từ bên ngoài dội vào, đặc biệt là ảnh hưởng của cách mạng Trung Quốc với chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn đã dẫn đến thành lập VNQDD. Địa bàn hoạt động chính là ở Bắc Kỳ.

* Lãnh đạo Đảng gồm: Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài, Nguyễn Khắc Nhu, Phó Đức Chính. Đây là một đảng chính trị theo khuynh hướng cách mạng dân chủ tư sản tiêu biểu cho bộ phận tư sản dân tộc Việt Nam.

* Mục tiêu của Đảng: là nhằm đánh đuổi giặc Pháp, đánh đổ ngôi vua, sau cùng thiết lập dân quyền.
Đảng viên của đảng gồm có sinh viên, học sinh, công chức, tư sản lớp dưới, người làm nghề tự do, cả một số nông dân khá giả, thân hào, địa chủ ở nông thôn và binh lính cùng các hạ sĩ quan người Việt trong quân đội Pháp.

* Về tổ chức: VNQDĐ chủ trương xây dựng thành 4 cấp từ trung ương xuống đến chi bộ cơ sở, nhưng chưa bao giờ trở thành một hệ thống trong cả nước. Đã thế lại ít có cơ sở quần chúng nên chỉ hoạt động trong một số địa phương nhỏ hẹp, không phát triển thành một phong trào rộng lớn được.
=>Thành phần phức tạp, tổ chức lỏng lẻo, đảng lại kết nạp thiếu thận trọng nên mật thám và tay sai có cơ hội chui vào tổ chức. Vì vậy, thực dân Pháp đã theo dõi rất sát mọi hoạt động của đảng, chỉ chờ dịp là ra tay khủng bố đàn áp.

b. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái:
*Nguyên nhân
- Ngày 9/2/1929, tại Hà Nội đã xảy ra vụ ám sát tên trùm mộ phu đi các đồn điền cao su ở Nam kỳ người pháp là Badanh. Thực dân Pháp liền tổ chức các cuộc vây ráp lớn, không trừ một tổ chức cách mạng nào, gây ra những tổn thất lớn cho phong trào cách mạng.
- Riêng Việt Nam quốc dân đảng, số đảng viên bị bắt có tới gần 1000 người, nhiều cơ sở các nơi bị phá vỡ, cán bộ từ trung ương đến địa phương hầu hết đều sa lưới.
- Bị động trước tình thế, mặc dù hệ thống tổ chức của Đảng chưa kịp xây dựng và củng cố lại, một số lãnh tụ của đảng chưa bị bắt đã quyết định dốc hết lực lượng còn lại tiến hành một cuộc khởi nghĩa với tinh thần may ra thì “thành công" nếu không thì cũng "thành nhân.”

* Diễn biến
- Cuộc khởi nghĩa nổ ra ở Yên Bái đêm 9/2/1930, sau đó là Phú Thọ, Hải Dương, Thái Bình. ở Hà Nội cũng có ném bom để phối hợp.
- Tại Yên Bái, quân khởi nghĩa đã chiếm được trại lính, giết và làm bị thương một số sĩ quan và hạ sĩ quan Pháp, song không làm chủ được tỉnh lị. Hôm sau, quân Pháp phản công cuộc khởi nghĩa nhanh chóng bị dập tắt. ở các nơi khác quân khởi nghĩa chỉ chiếm được vài huyện lị nhỏ và cũng nhanh chóng bị địch chiếm lại.
- Sau khi dập tắt được cuộc khởi nghĩa thực dân Pháp đã đàn áp rất dã man. Nguyễn Thái Học cùng 12 đồng chí của ông bị thực dân Pháp hành hình tại Yên Bái.

*Nguyên nhân thất bại:
Về khách quan: Đế quốc Pháp lúc đó còn mạnh, đủ sức đàn áp một cuộc đấu tranh vũ trang vừa cô độc vừa non kém.
Về mặt chủ quan:
+ VNQDĐ là tổ chức phát động cuộc khởi nghĩa lại non yếu và không vững chắc về tổ chức và lãnh đạo.
+ Phong trào dân tộc dân chủ theo khuynh hướng tư sản dưới ngọn cờ của Việt Nam quốc dân đảng đã không đáp ứng được yêu cầu khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân ta, không đủ sức vượt qua sự đàn áp khủng bố của kẻ thù để tồn tại và phát triển.

* Ý nghĩa lịch sử:
+ Nó đánh dấu sự phá sản hoàn toàn của đường lối chính trị tư sản ở nước ta. “ sau cuộc bạo động Yên Bái, ngọn cờ phản đế phản phong, ngọn cờ giải phóng dân tộc đã chuyển hẳn qua tay giai cấp vô sản ”
+ Cuộc khởi nghĩa Yên Bái tuy thất bại nhưng đã góp phần cổ vũ lòng yêu nước và chí căm thù của nhân dân ta đối với bè lũ cướp nước và tay sai.
+ Tiếp thu và phát huy tinh thần yêu nước của cuộc khởi nghĩa Yên Bái, phong trào cách mạng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam không ngừng tiến tới thắng lợi.

c. Nguyên nhân thất bại, ý nghĩa lịch sử của phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản đầu thế kỉ XX
* Nguyên nhân thất bại
- Về khách quan: Hệ tư tưởng dân chủ đã suy tàn, không còn sức hấp dẫn như trước (nhất là khi Cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi). Mặt khắc, thực dân Pháp còn mạnh, đủ sức đối phó với các phong trào, các tổ chức non kém như Việt Nam Quốc Dân Đảng.
- Về chủ quan: Giai cấp tư sản Việt Nam nhỏ bé về kinh tế, không có tinh thần đấu tranh triệt để; còn giai cấp tiểu tư sản do đời sống kinh tế bấp bênh, nên chưa kiên định, chỉ bồng bột hăng hái nhất thời. Ngay Việt Nam Quốc Dân Đảng với tư cách là đảng chính trị, đại diện cho quyền lợi và tư tưởng của tư sản dân tộc và tiểu tư sản lớp trên cũng không nêu ra được một cương lĩnh rõ ràng, nhất quán. Tổ chức Đảng lỏng lẻo, thành phần đảng viên phức tạp, nên không lôi kéo, tập hợp được đông đảo quần chúng tham gia.

Ghế gỗ
 Tác giả| Đăng lúc 22-8-2012 21:00:56 | Chỉ xem của tác giả
PHONG TRÀO CÔNG NHÂN VIỆT NAM TỪ NĂM 1919 ĐẾN NĂM 1930



1. Phong trào công nhân từ 1919 đến 1930
a. Phong trào đấu tranh của công nhân từ 1919 đến 1925 (giai đoạn đấu tranh tự phát)
-Từ sau chiến tranh thế giới lần I, do sự ra tăng về số lượng nên phong trào đấu tranh cũng mạnh mẽ hơn, ý thức giác ngộ của giai cấp được nâng lên làm cơ sở cho các tổ chức và phong trào chính trị cao hơn về sau.
- Ngay từ năm 1920, công nhân Sài Gòn- Chợ Lớn đã thành lập Công hội đỏ bí mật do Tôn Đức Thắng đứng đầu.
- Các cuộc đấu tranh của công nhân và thuỷ thủ Pháp trên các tàu chiến ghé vào cảng Hải Phòng (1919) (vd: Thuỷ thủ tầu Sácnô đòi tăng lương), cảng Sài Gòn (1920) (vd: 5 chiếc tầu của Pháp ở cảng Sài Gòn đòi phụ cấp đắt đỏ), cũng như các cuộc đấu tranh của công nhân và thuỷ thủ Trung Quốc tại các cảng lớn: Hương Cảng, áo Môn, Thượng Hải (1921) (vd: 1921, Liên đoàn công nhân tàu biển ở Viễn Đông được thành lập, phát triển ở Ma Cao, Thượng Hải, một số công nhân Việt Nam trên các tàu của Pháp cũng gia nhập) đã góp phần cổ vũ, động viên công nhân Việt Nam hăng hái đấu tranh.
- Mở đầu là cuộc bãi công của công nhân và viên chức các sở công thương của tư nhân ở Bắc Kỳ đòi chủ tư bản ngươi Pháp phải cho họ nghỉ ngày chủ nhật có trả lương (1922), cuộc bãi công của thợ nhuộm ở Chợ Lớn (11/1922). Sang năm 1924, có nhiều cuộc bãi công của công nhân các nhà máy dệt, rượu, xay gạo ở Nam Định, Hà Nội, Hải Dương...Đặc biệt vào năm 1925, cuộc bãi công của thợ máy sửa chữa tàu thuỷ của xưởng Ba Son (Sài Gòn) đã ngăn không cho tàu chiến pháp đưa binh lính sang tham gia đàn áp cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân và thuỷ thủ Trung Quốc (8/1925).
- Cuộc bãi công xủa công nhân Ba Son thắng lợi đánh dấu bước tiến mới của phong trào công nhân Việt Nam. Giai cấp công nhân nước ta từ đây bước đầu đi vào đấu tranh tự giác. Qua cuộc bãi công này, thấy rõ tư tưởng cách mạng tháng Mười Nga đã thấm sâu hơn một bước vào giai cấp công nhân Việt Nam và đã biến thành hành động của công nhân Việt Nam.

Nhận xét:
- Các cuộc đấu tranh thời kỳ này của công nhân sôi nổi từ Bắc đến Nam. Họ đã sử dụng hình thức đấu tranh riêng biệt của công nhân (bãi công), có yêu cầu cụ thể về quyền lợi của giai cấp mình, bước đầu đã xuất hiện tính tổ chức lãnh đạo và ý thức chính trị, song về cơ bản phong trào vẫn mang tính tự phát bởi vì họ chưa tỏ rõ được là một lực lượng chính trị độc lập, chưa có ý thức rõ rệt về sứ mệnh lịch sử của giai cấp mình. Họ đấu tranh chủ yếu đòi cải thiện đời sống hàng ngày chống lại bọn chủ bóc lột trực tiếp chứ chưa nhằm chống lại chính phủ thuộc địa đòi thủ tiêu chế độ thống trị, tức là phong trào đấu tranh của công nhân chưa gắn với giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc.

b. Phong trào công nhân từ 1926 đến 1929 (giai đoạn đấu tranh tự giác)
+ Từ sau năm 1925, nhiều sự kiện chính trị trong và ngoài nước đã tác động sâu sắc đến phong trào công nhân Việt Nam tạo ra một sự chuyển biến mạnh mẽ về chất.
Cách mạng dân tộc dân chủ ở Trung Quốc phát triển mạnh mà trung tâm là Quảng Châu. Đại hội lần V của Quốc tế Cộng sản (1924) đề ra những nghị quyết quan trọng về phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa.
- Tiếp đến là vụ phản biến của Tưởng Giới Thạch và sự thất bại của Công xã Quảng Châu năm 1927, đã cung cấp một bài học kinh nghiệm nóng hổi về tính hai mặt của giai cấp tư sản và về vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân trong cách mạng dân tộc dân chủ ở một nước thuộc địa và nửa thuộc địa.
- Nguyễn ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc) vào 11/1924 và đã thành lập một tổ chức tiền thân của Đảng là Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (6/1925). Sự ra đời và phát triển của tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, đặc biệt chủ trương "vô sản hoá" của tổ chức (1928) đã góp phần thúc đẩy mạnh việc kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
- Những sự kiện chính trị trên đã có tác động mạnh mẽ đến sự giác ngộ của giai cấp công nhân làm cho phong trào công nhân phát triển mạnh.
+ Trong hai năm 1926 - 1927 liên tiếp nổ ra nhiều cuộc bãi công, biểu tình của công nhân, viên chức, học sinh học nghề. Lớn nhất là cuộc bãi công của 1000 công nhân nhà máy sợi Nam Định; 500 công nhân đồn điền cao su Cam Tiêm (1926), công nhân đồn điền cao su Phú Riềng (1927), công nhân đồn điền cao su Rayan (Thái Nguyên).
Trong những năm 1928 - 1929, phong trào công nhân trên đà phát triển đã mang tính thống nhất trong toàn quốc.
+ Về số lượng:
Có tới 40 cụôc đấu tranh nổ ra từ Bắc chí Nam, lớn nhất là các cuộc bãi công ở nhà máy xi măng, nhà máy sợi Hải Phòng, nhà máy sợi Nam Định, nhà máy diêm, nhà máy cưa Bến Thuỷ và nhà máy xe lửa Trường Thi (Vinh), nhà máy sửa chữa ô tô Avia (Hà Nội), mỏ than Hòn Gai, nhà máy Ba Son (Sài Gòn), đồn điền Phú Riềng...
+ Về chất lượng: Phong trào công nhân thời kì này có sự chuyển biến về chất. Tại nhiều nhà máy xí nghiệp, sự lãnh đạo của tổ chức Thanh Niên và Tân Việt được củng cố.
- Hình thức bãi công được sử dụng phổ biến. Khẩu hiệu đấu tranh không chỉ giới hạn ở các mục tiêu kinh tế mà kết hợp với các khẩu hiệu chính trị.
- Phong trào nổ ra liên tiếp ở ba kì có sự lãnh đạo, chỉ huy và phối hợp đấu tranh, các cuộc đấu tranh diễn ra sôi nổi, quyết liệt hơn, tính chất tự phát trong đấu tranh giảm đi thay bằng các cuộc đấu tranh có ý thức, có tổ chức với quy mô ngày càng lớn

    Nhận xét: Giai cấp công nhân đã từng bước ý thức được sứ mệnh lịch sử của mình do được chủ nghĩa Mác - Lênin soi dọi. Các cuộc đấu tranh của công nhân trong thời kỳ này đã mang tính chất chính trị, vượt ra ngoài phạm vi một xưởng, bước đầu liên kết được nhiều ngành, nhiều địa phương. Tình hình đó chứng tỏ trình độ giác ngộ của công nhân đã nâng lên rõ rệt tuy chưa được đều khắp. Trong làn sóng cách mạng dân tộc dân chủ, giai cấp công nhân đã trở thành một lực lượng chính trị độc lập. Phong trào công nhân đã mang tính tự giác.


2. Vai trò của phong trào công nhân đối với sự thành lập Đảng cộng sản Việt Nam
- Phong trào công nhân là một bộ phận của phong trao yêu nước, do đó phong trào công nhân ngày càng phát triển càng thúc đẩy phong trào yêu nước nói chung
- Phong trào công nhân là mảnh đất màu mỡ đón nhận chủ nghĩa Mác – Lênin từ bên ngoài vào Việt Nam, là nhân tố quyết định nhất kết hợp với chủ nghĩa Mác – Lênin và phong trào yêu nước dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam đầu năm 1930.
Tầng
 Tác giả| Đăng lúc 22-8-2012 21:01:15 | Chỉ xem của tác giả
HOẠT ĐỘNG CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TỪ 1911 ĐẾN NĂM 1930



Câu 1: Quá trình Nguyễn ái Quốc tìm đường cứu nước, đến với chủ nghĩa Mác – Lênin (1911 - 1920) diễn ra như thế nào?

    Sơ lược tiểu sử Nguyễn ái Quốc


Nguyễn ái Quốc, hồi nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung (sau là Nguyễn Tất Thành), sinh ngày 19-5-1890, tại làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Người xuất thân trong một gia đình trí thức yêu nước, gần gũi với nhân dân, lớn lên từ một miền quê có truyền thống đấu tranh quật khởi, lại được chứng kiến sự thất bại của một loạt các cuộc đấu tranh chống Pháp, được tiếp xúc với nhiều nhà cách mạng đương thời. Vì vậy, từ rất sớm, Nguyễn ái Quốc đã có “chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào”.
Xuất phát từ lòng yêu nước và trên cơ sở bài học thành công, thất bại của các thế hệ cách mạng tiền bối, ngày 5-6-1911, Nguyễn ái Quốc đã quyết định ra đi tìm đường cứu nước mới, đưa tới thắng lợi.

b. Quá trình ra đi tìm đường cứu nước đến với chủ nghĩa Mác – Lênin (1911-1920)
- Đầu thế kỷ XX, cách mạng Việt Nam đang đứng trước sự khủng hoảng về con đường cứu nước giải phóng dân tộc. Với tình yêu nước thiết tha, Nguyễn ái Quốc đã ra đi tìm một con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc.
- Ngày 5/6/1911, Nguyễn ái Quốc với tên gọi Văn Ba đã ra đi tìm đường cứu nước. Cuộc hành trình của Người đã qua nhiều châu lục: á, Âu, Phi, Mĩ, phải trải qua nhiều nghề khác nhau, tiếp xúc với các tầng lớp lao động ở nhiều nước. Nhờ đó Người hiểu rằng ở đâu bọn đế quốc, thực dân cũng cũng tàn bạo, tàn ác; ở đâu những người lao động cũng bị áp bức và bị bóc lột dã man. Từ đó Người rút ra kết luận “ Giai cấp công nhân và nông dân lao động các nước đều là bạn và chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng là thù”.
- Cuối 1917, Nguyễn ái Quốc đã từ Anh sang Pháp. Trong thời điểm này cách mạng tháng 10 Nga đã thành công, chủ nghĩa Mác - Lênin đã trở thành hiện thực tác động ảnh hưởng sâu sắc đối với phong trào công nhân quốc tế. Người đã tham gia vào phong trào đấu tranh đòi hồi hương cho binh lính và thợ thuyền Việt Nam. Năm 1919, người đã gia nhập Đảng xã hội Pháp, một Đảng tiến bộ chủ trương chống lại chính sách áp bức thuộc địa.
- 18/6/1919 các nước thắng trận trong thế chiến lần thứ I đã họp ở Vécxai. Nguyễn ái Quốc đã thay mặt những người Việt Nam tại Pháp gửi tới Hội nghị bản yêu sách đòi chính phủ Pháp phải thực hiện những quyền tự do, dân chủ, quyền bình đẳng và quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam. Những yêu sách trên không được chấp nhận nhưng đòn tấn công trực diện đầu tiên đó của nhà cách mạng trẻ tuổi vào bọn trùm đế quốc đã có tiếng vang lớn đối với nhân dân Việt Nam, nhân dân Pháp và nhân dân các thuộc địa của Pháp. Cũng từ sự kiện này, một bài học lớn đã được Người rút ra “ chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”
- Tháng 7/1920, Nguyễn ái Quốc đọc được bản Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin. Trong đó đã khẳng định lập trường kiên quyết ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Phương Đông của Quốc tế cộng sản. Từ đó, Nguyễn ái Quốc hoàn toàn tin theo Lênin, dứt khoát đứng về Quốc tế thứ ba.
- Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp họp tại thành Tua (12/1920), Nguyễn ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc Tế III và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện Nguyễn ái Quốc trở thành đảng viên của Đảng Cộng sản Pháp và là người Cộng sản Việt Nam đầu tiên đã đánh dấu bước ngoặt trong bước đường hoạt động của của Nguyễn ái Quốc, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lênin và đi theo con đường cách mạng vô sản. Sự kiện đó cũng đánh dấu bước mở đường giải quyết cuộc khủng hoảng về đường lối giải phóng dân tộc Việt Nam.
=> Như vậy, Nguyễn ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên tiếp nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, khẳng định: “Muốn cứu nước giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản”. Công lao đầu tiên của Người đối với dân tộc là tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn, đã giải quyết được cuộc khủng hoảng về đường lối và giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt Nam từ cuối thế kỉ XIX tới lúc bấy giờ.
5#
 Tác giả| Đăng lúc 22-8-2012 21:01:32 | Chỉ xem của tác giả
Câu 2: Nguyễn ái Quốc hoạt động truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin chuẩn bị thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam như thế nào trong những năm 1920 – 1930?

- Sau khi tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc, trở thành người cộng sản, Nguyễn ái Quốc vừa tiếp tục học tập, vừa tìm cách truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào trong nước, chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời một chính đảng tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam. Quá trình này có thể tóm lược qua các thời kì sau:

a. Thời kỳ ở Pháp (1920 -1923)
- Năm 1921, được sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn ái Quốc cùng một số người yêu nước của các thuộc địa Pháp sáng lập ra Hội liên hiệp thuộc địa ở Pari để đoàn kết các lực lượng cách mạng chống chủ nghĩa thực dân, thông qua tổ chức đó đem chủ nghĩa Mác - Lênin đến các dân tộc thuộc địa.
+ Tờ báo Người cùng khổ của Hội do Người làm chủ nhiệm kiêm chủ bút đã vạch trần chính sách đàn áp, bóc lột dã man của chủ nghĩa đế quốc nói chung và của đế quốc Pháp nói riêng, thức tỉnh các dân tộc bị áp bức nổi dậy đấu tranh tự giải phóng.
+ Nguyễn ái Quốc còn viết nhiều bài cho các báo Nhân đạo (của Đảng Cộng sản Pháp), Đời sống công nhân’(của Tổng Liên đoàn lao động Pháp), ....và cuốn Bản án chế độ thực dân Pháp . Mặc dù bị nhà cầm quyền Pháp tìm mọi cách ngăn chặn, cấm đoán, các sách báo nói trên vẫn bí mật chuyển về Việt Nam.
- Nhân dân ta, trước hết là những tiểu tư sản trí thức yêu nước, tiến bộ, nhờ đọc các sách báo tiến bộ đó mà hiểu rõ hơn bản chất của chủ nghĩa đế quốc nói chung và chủ nghĩa đế quốc Pháp nói riêng, hiểu được cách mạng tháng Mười Nga và đã hướng về chủ nghĩa Mác - Lênin.

b. Thời kỳ ở Liên Xô (1923 - 1924)
- Tháng 6/1923, Nguễn Aí Quốc đã rời Pháp đi Liên Xô dự Hội nghị Quốc tế nông dân và được bầu vào Ban chấp hành. Sau đó Nguyễn ái Quốc ở lại Liên xô một thời gian, vừa làm việc, vừa nghiên cứu học tập, làm việc ở Quốc tế cộng sản, viết bài cho báo Sự thật, tạp chí ’’Thư tín quốc tế” của Quốc tế Cộng sản. Tại Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V (1924), Người đã trình bày quan điểm của mình về vị trí, chiến lược của cách mạng thuộc địa; về mối quan hệ giữa phong trào công nhân ở các nước đế quốc với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa; về vai trò và sức mạnh to lớn của giai cấp nông nhân ở các nước thuộc địa.

c. Thời kỳ ở Trung Quốc ( 1924 - 1927)
- Đầu 11/1924, Nguyến Aí Quốc từ Liên Xô về Quảng Châu (Trung Quốc). Tại đây, Người đã tiếp xúc với các nhà cách mạng Việt Nam cùng một số thanh niên hăng hái mới từ trong nước sang theo tiếng gọi của tiếng bom Sa Diện (6/1924). Nguyễn Aí Quốc đã tập hợp những thanh niên tiêu biểu để thành lập ra tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (6/1925), trong đó có tổ chức Cộng sản đoàn làm nòng cốt, hướng tổ chức này đi theo con đường cách mạng vô sản. Hội đã xuất bản tờ báo “Thanh niên” làm cơ quan ngôn luận, đăng tải những nội dung về chủ nghĩa Mác - Lênin, về cách mạng vô sản đã có sức hấp dẫn lớn đối với các thanh niên yêu nước Việt Nam lúc bấy giờ.
Tại Quảng Châu, Người đã mở nhiều lớp huấn luyện chính trị để đào tạo một số thanh niên Việt Nam trở thành những cán bộ cách mạng. Từ 1924 đến 1927, đã đào tạo được 75 cán bộ. Một số được chọn đi học trường Đại học Phương Đông ở Liên xô, một số được cử đi học quân sự ở Liên xô hay Trung Quốc, còn phần lớn về nước hoạt động. Những bài giảng trong các khoá đào tạo được in thành cuốn sách Đường cách mệnh (xuất bản đầu 1927).
Tóm lại: Từ khi Nguyễn Aí Quốc tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc, Người đã không ngừng học tập, nghiên cứu, hoạt động nhằm truyền bá ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào cách mạng Việt Nam. Những bài viết, bài tham luận, bài báo, cuốn sách của Người đã bằng nhiều con đường khác nhau bí mật đưa về nước đến tay những người yêu nước Việt Nam, có tác dụng chuẩn bị về tư tưởng chính trị, cũng như sự ra đời và phát triển của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên có tác dụng chuẩn bị về tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

d. Triệu tập Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam thành công và dự thảo được Cương lĩnh chính trị đúng đắn cho cách mạng Việt Nam
* Hoàn cảnh lịch sử:
- Sự xuất hiện 3 tổ chức cộng sản vào cuối 1929 thể hiện xu thế phát triển của cách mạng Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của các tổ chức cộng sản, phong trào đấu tranh của công nhân đã kết hợp chặt chẽ với phong trào của nông dân, phong trào của tiểu tư sản ở thành thị...tạo thành một làn sóng đấu tranh cách mạng dân tộc dân chủ khắp cả nước.
- Nhưng các các tổ chức cộng sản lại hoạt động riêng rẽ công kích lẫn nhau, tranh giành ảnh hưởng của nhau, thậm chí còn bài xích lẫn nhau, gây nên một trở ngại lớn cho phong trào cách mạng. Tình hình này càng kéo dài sẽ có nguy cơ dẫn đến sự chia rẽ lớn. Từ đó đặt ra một yêu cầu bức thiết là phải có một Đảng Cộng sản thống nhất trong cả nước.
- Trước tình hình đó, với tư cách là phái viên của Quốc tế cộng sản, Nguyễn ái Quốc có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề của phong trào cách mạng ở Đông Dương. Nguyễn Aí Quốc đã từ Xiêm về Hương Cảng để triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.

* Nội dung Hội nghị thành lập Đảng
- Từ ngày 6/1 đến ngày 8/2/1930, Hội nghị thành lập Đảng họp ở Cửu Long (Hương Cảng - Trung Quốc) do Nguyễn Aí Quốc chủ trì. Đến dự Hội nghị có 2 đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng (Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh), và 2 đại biểu cảu An Nam Cộng sản Đảng (Châu Văn Liêm và Nguyễn Thiệu).

- Nội dung Hội nghị:
+- Hội nghị đã nhất trí tán thành thống nhất các tổ chức cộng sản để thành lập 1 đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam;
+ Hội nghị đã thông qua bản Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng và Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng do Nguyễn Aí Quốc khởi thảo.
- ý nghĩa: Hội nghị thống nhất có ý nghĩa như một Đại hội thành lập Đảng.
- Sau hội nghị hợp nhất, Đông Dương cộng sản liên đoàn đã yêu cầu được gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày 24/2/1930, yêu cầu đó được chấp nhận. Như vậy, cả 3 tổ chức cộng sản ở Việt Nam đã hợp nhất thành một đảng thống nhất: Đảng Cộng sản Việt Nam.

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc điểm

GMT+7, 13-4-2025 11:27

Trang Chủ | Diễn Đàn Trường Mở

Truongmo.com © 2011

Trả lời nhanh Lên trên Trở lại danh sách