Advertisements
TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI NƯỚC TA TỪ SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ NHẤT ĐẾN ĐẦU NĂM 1930
Câu 1: Chính sách khai thác thuộc địa lần thứ hai của Pháp ở Đông Dương (mà chủ yếu là Việt Nam)?
1. Hoàn cảnh khai thác (lý do vì sao TDP tiến hành khai thác?)
- Trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918), Pháp là nước thắng trận nhưng bị tàn phá nặng nề, nền kinh tế bị kiệt quệ.
- Để bù đắp các thiệt hại to lớn do chiến tranh gây ra, bọn tư bản độc quyền ở Pháp vừa tăng cường bóc lột nhân dân lao động trong nước, vừa ráo riết đẩy mạnh khai thác các thuộc địa. ở Đông Dương, chúng thi hành “Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai”.
2. Nội dung của chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai
* Kinh tế:
- Sau chiến tranh, Pháp đã tăng cường đầu tư để mở rộng sản xuất và bóc lột được nhiều hơn. Chỉ trong 6 năm (1924-1929), tổng số vốn đầu tư vào Đông Dương tăng gấp 6 lần so với 20 năm trước chiến tranh (1898-1918). Chúng bỏ vốn nhiều nhất vào nông nghiệp và công nghiệp khai mỏ .
- Nông nghiệp: Từ 1927, số vốn đầu tư vào nông nghiệp lên đến 400 triệu Frăng (gấp 10 lần trước chiến tranh). Năm 1918, diện tích trồng cao su là 15.000 ha thì đến năm 1930 là 120.000 ha. Nhiều công ty cao su lớn ra đời: Công ty đất đỏ, công ty Mísơlanh, công ty Trồng cây nhiệt đới.....
- Công nghiệp: Chúng tập trung vào ngành công nghiệp khai thác (chủ yếu là khai thác than đá). Các công ty than có từ trước được đầu tư mở rộng. Đồng thời thành lập nhiều công ty than mới như: công ty than Hạ Long-Đồng Đăng, công ty than và kim khí Đông Dương, Công ty than Tuyên Quang, công ty than Đông Triều...
Bên cạnh đó, Pháp cũng mở thêm các cơ sở công nghiệp chế biến như: nhà máy sợi Hải Phòng, Nam Định; rượu Hà Nội, Nam Định, Hà Đông; diêm Hà Nội, Hàm Rồng, Bến Thuỷ; đường Tuy Hoà; gạo Chợ Lớn…
- Thương nghiêp: Pháp độc chiếm thị trường Đông Dương, nắm quyền xuất nhập khẩu và các nguồn thuế, đánh thuế nặng vào hàng hoá của các nước khác để làm mất khả năng cạnh tranh với hàng hoá của Pháp. Vì vậy, hàng hoá của Pháp nhập vào Việt Nam tăng 62% sau chiến tranh so với trước chiến tranh là 37%.
- Giao thông vận tải, cũng được đầu tư để phát triển thêm, phục vụ đắc lực cho khai thác và chuyên chở nguyên vật liệu cũng như cho lưu thông hàng hoá trong nội địa và với nước ngoài. Đường sắt xuyên Đông Dương được nối liền thêm nhiều đoạn Đồng Đăng - Nà Sầm ( 1922), Vinh - Đông Hà ( 1927).
- Tài chính: Ngân hàng Đông Dương đại diện thế lực của tư bản tài chính Pháp có cổ phần ở khắp các công ty, xí nghiệp lớn, do đó về thực tế nó đã nắm quyền chỉ huy các ngành kinh tế Đông Dương.
- Thực dân Pháp còn bóc lột nhân dân ta bằng cách đánh thuế nặngnhư: thuế ruộng đất, thuế thân, thuế rượu, thuế muối, thuế thuốc phiện và hàng trăm thứ thuế khác. Chính nhờ vào các khoản thu đó mà ngân sách Đông Dương từ 1912 đến 1930 đã tăng gấp 3 lần.
* Chính trị:
- Sau chiến tranh, chính sách cai trị thuộc địa của thực dân Pháp vẫn không hề thay đổi. Chúng thi hành chính sách chuyên chế triệt để, mọi quyền hành trong nước đều thâu tóm trong tay người Pháp, vua quan nhà Nguyễn chỉ là bù nhìn tay sai. Nhân dân không được hưởng một chút quyền tự do dân chủ nào, mọi hoạt động yêu nước đều bị thẳng tay đàn áp, khủng bố.
Thực dân Pháp thực hiện chính sách "chia để trị" như: chia nước ta thành 3 kỳ với 3 chế độ khác nhau, chia rẽ đồng bào lương và đồng bào giáo, các dân tộc đa số với thiểu số.
- Mặt khác, chúng dụ dỗ và mua chuộc nhằm tạo dựng và duy trì đội ngũ tay sai làm chỗ dựa cho nền thống trị như mở rộng Hội đồng quản hạt Nam Kỳ, lập Viện dân biểu Bắc Kỳ, Viện dân biểu Trung Kỳ cho một số địa chủ và tư sản người Việt tham gia nhằm lôi kéo họ đi với chúng.
* Văn hoá - giáo dục:
Thi hành chính sách văn hoá nô dịch, nhằm gây tâm lý tự ti, vong bản, ra sức khuyến khích các hoạt động mê tín, dị đoan, cờ bạc, rượu chè...trong nhân dân. Trường học chỉ mở nhỏ giọt, chủ yếu là trường tiểu học, các trường trung học chỉ mở ở các thành phố; Một số trường đại học và cao đẳng thực chất là trường chuyên nghiệp. Rõ ràng là đế quốc Pháp chỉ cần đào tạo một đội ngũ công chức và công nhân lành nghề phục vụ cho công cuộc khai thác, bóc lột và củng cố bộ máy cai trị ở thuộc địa.
Sách báo xuất bản nhằm tuyên truyền chính sách "khai hoá" của bọn thực dân và gieo rắc ảo tưởng hoà bình hợp tác với bọn thực dân cướp nước và bọn vua quan bù nhìn bán nước.
Câu 2: Xã hội Việt Nam phân hoá như thế nào dưới tac động của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của Pháp?
- Do tác động của chính sách khai thác được đẩy mạnh trên quy mô lớn, sự phân hoá giai cấp trong xã hội Việt Nam ngày càng sâu sắc. Mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp xã hội có địa vị và quyền lợi khác nhau nên cũng có thái độ chính trị khác nhau trong cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp ngày càng phát triển.
* Giai cấp địa chủ phong kiến
Là chỗ dựa của chủ nghĩa đế quốc. Sự cấu kết giữa giai cấp địa chủ phong kiến và đế quốc ngày càng chặt chẽ tạo cơ hội cho chúng chia nhau chiếm đoạt ruộng đất của nông dân, đồng thời đẩy mạnh bóc lột về kinh tế và tăng cường kìm kẹp, đàn áp về chính trị đối với nông dân.
Tuy vậy, cũng có một bộ phận, nhất là địa chủ vừa và nhỏ có tinh thần yêu nước nên có tham gia các phong trào yêu nước khi có điều kiện.
* Giai cấp tư sản:
- Giai cấp tư sản chính thức ra đời sau chiến tranh thế giới thứ nhất (trong đợt khai thác thuộc địa lần thứ hai). Phần lớn ở họ là những tiểu chủ đứng trung gian làm thầu khoán, cung cấp nguyên vật liệu hay đại lý hàng hoá cho tư bản Pháp. Khi có được một chút vốn, họ đứng ra kinh doanh độc lập và trở thành nhà tư bản (như Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Hữu Thu...).
- Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, các nhà tư bản Việt Nam bỏ vốn kinh doanh vào một số ngành công thương tiêu biểu như: Công ty Tiên Long thương đoàn (Huế), Hưng hiệp hội xã (Hà Nội), xưởng chế xà phòng của Trương Văn Bền (Sài Gòn, công ty nấu rượu Nam Đồng ích (Thanh Hoá)...Cũng có người bỏ vốn vào khai thác mỏ (Bạch Thái Bưởi) và trồng cao su (Lê Phát Vĩnh, Trần Văn Chương...); Ngân hàng Việt Nam do một số địa chủ và tư bản Nam Kỳ bỏ vốn thành lập.
- Giai cấp tư sản Việt Nam mới ra đời đã gặp phải sự chèn ép của tư bản Pháp nên số lượng thì ít, thế lực kinh tế yếu, không thể cạnh tranh nổi với tư bản Pháp. Phát triển đến một chừng mực nào đó thì họ phân hoá thành hai bộ phận:
+ Tầng lớp tư sản mại bản, có quyền lợi gắn liền với đế quốc nên cấu kết chặt chẽ về chính trị với chúng.
+ Tàng lớp tư sản dân tộc, có khuynh hướng kinh doanh độc lập nên ít nhiều có tinh thần dân tộc dân chủ chống đế quốc và phong kiến, nhưng cũng có thái độ không kiên định, dễ thoả hiệp, cải lương khi đế quốc mạnh.
* Giai cấp tiểu tư sản:
- Gồm những người buôn bán nhỏ, chủ xưởng nhỏ, viên chức, trí thức, học sinh, sinh viên.
- Sau chiến tranh thế giới I, do sự phát triển của các ngành kinh tế, sự mở rộng các cơ quan hành chính, văn hoá, giáo dục nên giai cấp tiểu tư sản đã ra đời.
- Giai cấp tiểu tư sản cũng bị tư bản Pháp chén ép, bạc đãi, khinh rẻ, đời sống bấp bênh, dễ bị xô đẩy vào con đường phá sản, thất nghiệp. Trong đó, có bộ phận trí thức, sinh viên, học sinh lại có điều kiện tiếp xúc với các trào lưu tư tưởng văn hoá tiến bộ bên ngoài nên có tinh thần hăng hái cách mạng và là một lực lượng quan trọng trong cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta.
* Giai cấp nông dân:
- Giai cấp nông dân chiếm trên 90% dân số, bị đế quốc, phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề bằng các thủ đoạn sưu cao, thuế nặng, tô tức, phu phen, tạp dịch, cướp đoạt ruộng đất. Họ bị bần cùng hoá và phá sản trên quy mô lớn, nhưng chỉ có một bộ phận nhỏ rời làng đi tìm việc làm ở các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền, còn phần đông vẫn phải quay về làng sống cuộc đời tá điền cực nhọc. Trong hoàn cảnh đó, giai cấp nông dân Việt Nam là lực lượng hăng hái và đông đảo nhất của cách mạng.
* Giai cấp công nhân:
- Được hình thành trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ I và phát triển mạnh trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ II. Trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất, công nhân có khoảng 10 vạn, sau chiến tranh tính đến năm 1929 lên tới 22 vạn. Họ phần lớn tập trung tại các trung tâm kinh tế quan trọng của đế quốc Pháp là các vùng mỏ, đồn điền cao su, và các thành phố như Hà Nội, Sài Gòn - Chợ Lớn, Hải Phòng, Nam Định.
Mặc dù sinh ra ở một nước thuộc địa nhưng giai cấp công nhân Việt Nam cũng có những đặc điểm chung của công nhân quốc tế: là giai cấp đại diện cho một lực lượng sản xuất tiến bộ nhất của xã hội, điều kiện lao động và sinh sống tập trung...Bên cạnh đó, giai cấp công nhân Việt Nam còn có những đặc điểm riêng như: kế thừa được truyền thống yêu nước anh hùng và bất khuất của dân tộc; chịu ba tầng áp bức bóc lột của đế quốc, phong kiến, tư sản người Việt; có quan hệ tự nhiên gắn bó với nông dân. Đặc biệt, giai cấp công nhân Việt Nam vừa mới lớn lên đã tiếp thu ngay được ảnh hưởng của cách mạng tháng Mười Nga và của chủ nghĩa Mac - Lênin.
- Hoàn cảnh và đặc điểm ra đời và phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam làm cho giai cấp đó sớm trở thành một lực lượng chính trị độc lập, thống nhất, tự giác trong cả nước, để trên cơ sở đó nhanh chóng vươn lên nắm quyền lãnh đạo cách mạng nước ta.
- Như vậy, dưới tác động của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp và do sự phát triển của bản thân xã hội Việt Nam mà xã hội nước ta có sự chuyển biến to lớn. Một hệ quả của sự chuyển biến ấy là sự ra đời, lớn mạnh của các giai cấp vô sản, tiểu tư sản và tư sản có vai trò khác nhau trong phong trào yêu nước, chống Pháp ở Việt Nam theo những khuynh hướng tư sản và vô sản.
|