nhocsga1100 Tại 23-2-2013 21:21:15

phan tich bai tho nhan

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) sống gần trọn mộtthế kỉ đầy biến động của chế độ phong kiến Việt Nam: Lê – Mạc xưng hùng, Trịnh– Nguyễn phân tranh. Trong những chấn động làm rạn nứt những quan hệ nền tảng củachế độ phong kiến, ông vừa vạch trần những thế lực đen tối làm đảo lộn cuộc sốngnhân dân , vừa bảo vệ trung thành cho những giá trị đạo lí tốt đẹp qua nhữngbài thơ giàu chất triết lí về nhân tình thế thái, bằng thái độ thâm trầm của bậcđại nho. Nhàn là bài thơ Nôm nổi tiếng của nhà thơ nêu lên quan niệm sống của mộtbậc ẩn sĩ thanh cao, vượt ra cái tầm thường xấu xa của cuộc sống bon chen vìdanh lợi.

Nhà thơ đã nhiều lần đứng trên lập trường đạo đứcnho giáo để bộc lộ quan niệm sống của mình. Những suy ngẫm ấy gắn kết với quanniệm đạo lí của nhân dân, thể hiện một nhân sinh quan lành mạnh giữa thế cuộc đảođiên. Nhàn là cách xử thế quen thuộc của nhà nho trước thực tại, lánh đời thoáttục, tìm vui trong thiên nhiên cây cỏ, giữ mình trong sạch. Hành trình hưởngnhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm nằm trong qui luật ấy, tìm về với nhân dân, đối lậpvới bọn người tầm thường bằng cách nói ngụ ý vừa ngông ngạo, vừa thâm thúy.
Cuộc sống nhàn tản hiện lên với bao điều thú vị:

Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dù ai vui thú nào

Ngay trước mắt người đọc sẽ hiện lên một NguyễnBỉnh Khiêm thật dân dã trong cái bận rộn giống như một lão nông thực thụ. Nhưngđó là cả một cách chọn lựa thú hưởng nhàn cao quí của nhà nho tìm về cuộc sống“ngư, tiều, canh, mục” như một cách đối lập dứt khoát với các loại vui thúkhác, nhằm khẳng định ý nghĩa thanh cao tuyệt đối từ cuộc sống đậm chất dân quênày! Dáng vẻ thơ thẩn được phác hoạ trong câu thơ thật độc đáo, mang lại vẻ ungdung bình thản của nhà thơ trong cuộc sống nhàn tản thật sự. Thực ra, sự hiệndiện của mai, cuốc,cần câu chỉ là một cách tô điểm cho cái thơ thẩn khác đời củanhà thơ mà thôi. Những vật dụng lao động quen thuộc của người bình dân trởthành hiện thân của cuộc sống không vướng bận lo toan tục lụy. Đàng sau nhữngliệt kê của nhà thơ, ta nhận ra những suy nghĩ của ông không tách rời quan điểmthân dân của một con người chọn cuộc đời ẩn sĩ làm lẽ sống của riêng mình. TrạngTrình đã nhìn thấy từ cuộc sống của nhân dân chứa đựng những vẻ đẹp cao cả, mộttriết lí nhân sinh vững bền.
Đó cũng là cơ sở giúp nhà thơ khẳng định mộtthái độ sống khác người đầy bản lĩnh:

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người kiếm chốn lao xao

Hai câu thực là một cách phân biệt rõ ràng giữanhà thơ với những ai , những vui thú nào về ranh giới nhận thức cũng như chỗ đứnggiữa cuộc đời. Phép đối cực chuẩn đã tạo thành hai đối cực : một bên là nhà thơxưng Ta một cách ngạo nghễ, một bên là Người ; một bên là dại của Ta, một bênlà khôn của người ; một nơi vắng vẻ với một chốn lao xao. Đằng sau những đối cựcấy là những ngụ ý tạo thành phản đề khẳng định cho thái độ sống của Nguyễn BỉnhKhiêm. Bản thân nhà thơ nhiều lần đã định nghĩa dại – khôn bằng cách nói ngượcnày. Bởi vì người đời lấy lẽ dại – khôn để tính toán, tranh giành thiệt hơn,cho nên thực chất dại – khôn là thói thực dụng ích kỷ làm tầm thường con người,cuốn con người vào dục vọng thấp hèn. Mượn cách nói ấy, nhà thơ chứng tỏ được mộtchỗ đứng cao hơn và đối lập với bọn người mờ mắt vì bụi phù hoa giữa chốn laoxao . Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng chủ động trong việc tìm nơi vắng vẻ – không vướngbụi trần. Nhưng không giống lối nói ngược của Khuất Nguyên thuở xưa « Người đờitỉnh cả, một mình ta say » đầy u uất, Trạng Trình đã cười cợt vào thói đời bằngcái nhếch môi lặng lẽ mà sâu cay, phê phán vào cả một xã hội chạy theo danh lợi,bằng tư thế của một bậc chính nhân quân tử không bận tâm những trò khôn - dại .Cũng vì thế, nhà thơ mới cảm nhận được tất cả vẻ đẹp của cuộc sống nhàn tản :

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao

Khác hẳn với lối hưởng thụ vật chất đắm mìnhtrong bả vinh hoa, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thụ hưởng những ưu đãi của một thiênnhiên hào phóng bằng một tấm lòng hoà hợp với tự nhiên. Tận hưởng lộc từ thiênnhiên bốn mùa Xuân – Hạ – Thu – Đông, nhà thơ cũng được hấp thụ tinh khí đất trờiđể gột rửa bao lo toan vướng bận riêng tư . Cuộc sống ấy mang dấu ấn lánh đờithoát tục, tiêu biểu cho quan niệm « độc thiện kỳ thân » của các nhà nho . đồngthời có nét gần gũi với triết lí « vô vi » của đạo Lão, « thoát tục » của đạoPhật. Nhưng gạt sang một bên những triết lí siêu hình, ta nhận ra con người nghệsĩ đích thực của Nguyễn Bỉnh Khiêm, hoà hợp với tự nhiên một cách sang trọng bằngtất cả cái hồn nhiên trong sạch của lòng mình . Không những thế, những hình ảnhmăng trúc, giá, hồ sen còn mang ý nghĩa biểu tượng gắn kết với phẩm chất thanhcao của người quân tử, sống không hổ thẹn với lòng mình. Hoà hợp với thiênnhiên là một Tuyết Giang phu tử đang sống đúng với thiên lương của mình. Quanniệm về chữ Nhàn của nhà thơ được phát triển trọn vẹn bằng sự khẳng định :

Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

Mượn điển tích một cách rất tự nhiên, Nguyễn BỉnhKhiêm đã nói lên thái độ sống dứt khoát đoạn tuyệt với công danh phú quý. Quanniệm ấy vốn dĩ gắn với đạo Lão – Trang, có phần yếm thế tiêu cực, nhưng đặttrong thời đại nhà thơ đang sống lại bộc lộ ý nghĩa tích cực. Cuộc sống của nhữngkẻ chạy theo công danh phú quý vốn dĩ ông căm ghét và lên án trong rất nhiềubài thơ về nhân tình thế thái của mình :

Ở thế mới hay người bạc ác
Giàu thì tìm đến, khó thì lui
(Thói đời)

Phú quý đi với chức quyền đối với Nguyễn BỉnhKhiêm chỉ là cuộc sống của bọn người bạc ác thủ đoạn, giẫm đạp lên nhau mà sống.Bọn chúng là bầy chuột lớn gây hại nhân dân mà ông vô cùng căm ghét và lên ántrong bài thơ Tăng thử (Ghét chuột) của mình. Bởi thế, có thể hiểu thái độ nhìnxem phú quý tựa chiêm bao cũng là cách nhà thơ chọn lựa con đường sống gần gũi,chia sẻ với nhân dân. Cuộc sống đạm bạc mà thanh cao của người bình dân đángquý đáng trọng vì đem lại sự thanh thản cũng như giữ cho nhân cách không bịhoen ố vẩn **c trong xã hội chạy theo thế lực kim tiền. Cội nguồn triết lí củaNguyễn Bỉnh Khiêm gắn liền với quan niệm sống lành vững tốt đẹp của nhân dân.
Bài thơ Nhàn bao quát toàn bộ triết trí, tình cảm,trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, bộc lộ trọn vẹn một nhân cách của bậc đại ẩn tìmvề với thiên nhiên, với cuộc sống của nhân dân để đối lập một cách triệt để vớicả một xã hội phong kiến trên con đường suy vi thối nát. Bài thơ là kinh nghiệmsống, bản lĩnh cứng cỏi của một con người chân chính.



nhocsga1100 Tại 23-2-2013 21:22:20

phan tich bai tho nhan

Nhà nho ngày xưasống theo lẽ “xuất xử”: Gặp thời hưng thị thì ra cứu đời, giúp nước; khithời thế loạn lạc gặp chúa tối vua mê thì rút lui về ở ẩn bên núi, bên sông.Nguyễn BỉnhKhiêm (1491 - 1585) đỗ Trạng nguyên; học vị cao nhất thời phong kiến, làm quandưới triều nhà Mạc được 8 năm. Nhận thấy xã hội rối ren, nạn cát cứ và tranhchấp giữa các tập đoàn phong kiến Lê - Mạc, Trịnh - Nguyễn kéo dài, ông bèn cáoquan về ẩn cư trên 40 năm ở quê nhà, làm am Bạch Vân, sửa cầu Nghinh Phong,Trường Xuân, lập quán Trung Tân ở bến Tuyết Giang, dạy nhiều học trò, do đóđược người đời gọi là Tuyết Giang phu tử. Tại đây, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã viếtnhiều bài thơ Nôm nổi tiếng trong đó có bài “Nhàn”.Trong hai câuđề, nhà thơ nêu lên cảnh lao động tự cung, tự cấp:“Một mai, mộtcuốc, một cần câu,Thơ thẩn dù ai vui thú nào”.Mai là công cụđể đào, cuốc để xới và cần câu để kiếm tôm cá. Nhịp thơ 2/2/3 gợi tả phong tháikhoan thai của nhà Nho. Dù có lao động vất vả nhưng tác giả tỏ ra mãn nguyệnvới cuộc sống mà mình đã lựa chọn. “Thơ thẩn” là sống ung dung, khôngbận tâm đến sự đời đen bạc.Hai câu tiếptheo so sánh hai cách sống:“Ta dại ta tìmnơi vắng vẻ,Người khôn người đến chốn lao xao”.“Ta” đây là NguyễnBỉnh Khiêm và những người cùng chí hướng như ông. “Người” đây là đám vuachúa, quan lại đương thời. “Nơi vắng vẻ” là cuộc sống giữa thiên nhiên,xa cách xã hội ồn ào, lộn xộn, do đó không phải bon chen, cầu cạnh nên tâm hồnđược thoải mái. “Chốn lao xao” là chốn triều đình, chốn cửa quyền có lâuđài, bổng lộc hậu hĩ nhưng phải cạnh tranh quyết liệt. Ngày xưa, Nguyễn Trãi đãnói về sự nguy hiểm của chốn này:“Miệng thế nhọnhơn chông mác nhọn, Lòng người quanh nữa nước non quanh”.Vậy là “khôn”mà thành “dại”; “dại” mà thành “khôn”. Thể bình đối tạonên ấn tượng về sự tương phải sâu sắc giữa “ta” và “người”. Đọcđến đây, ai cũng có cảm tưởng như cụ Trạng Trình đang mỉm một nụ cười châm biếmnhững người gọi là “khôn”. Nối tiếp Nguyễn Bỉnh Khiêm, về sau Lê HữuTrác - tác giả Thượng Kinh ký sự - cũng không ra làm quan, sống ở quê nhà và tựgọi là Lãn Ông - tức ông già lười nhác, lười nhác về mặt công danh.Hai câu luận nóivề sinh hoạt của tác giả: “Thu ăn măngtrúc, đông ăn giá, Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”.Như vậy là nhàthơ đã có một cuộc sống nền nếp, ổn định mùa nào thức ấy, mùa nào thú ấy. Măngtrúc và giá xét cho cùng chỉ là những món ăn đạm bạc. Nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêmlại tỏ ra mãn nguyện về cuộc sống như thế vì nó hợp với người quân tử: cầuđạo, bất cầu thực. Trong bài “Hàn Nho phong vị phú”, Nguyễn Công Trứ cũngnói:“Ngày ba bữa vỗbụng rau bình bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no”.Nhà Nho hướng vềmột cuộc sống tinh thần cao đẹp mà coi thường sự thiếu thốn về vật chất. Thanhđạm mà thanh cao.Hai câu kết kháiquát lên một tầm cao triết lí về cách sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm:“Rượu đến cộicây ta sẽ uống, Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”.Nhà thơ lấy điểntích Thuần Vu Phần, một viên tướng đời Đường, vì chán công danh, xin từ chức,về nhà uống rượu làm khuây. Một lần say, ngủ bên gốc cây hòe, chiêm bao đượclàm phò mã, có cuộc đời rất phú quý. Tỉnh dậy thì ra đang nằm cạnh tổ kiến bêngốc cây hòe ! Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng giống như Thuần Vu Phần, coi phú quý chỉlà chuyện chiêm bao, chuyện hão huyền, vô nghĩa, không đeo đuổi nó và an tâmvới cuộc sống bên bến Tuyết Giang.“Nhàn” làbài thơ có nghệ thuật điêu luyện. Từ ngữ giản dị, phần lớn là thuần Việt. Hìnhảnh cô đọng, đối ngẫu chặt chẽ. Nó đánh dấu một bước tiến của thơ Nôm Đườngluật ở nước ta trong thế kỉ XVI.Bài thơ có nộidung sâu sắc. Xã hội phong kiến Việt Nam hồi thế kỷ XVI đang chìm trongkhủng hoảng trầm trọng đã khiến nhà thơ chán ghét, tìm cách xa lánh nó, sốngtrong cảnh nhàn để giữ cho tâm hồn thanh cao. “Nhàn” mà trong sạch, cao quý, vìđó là một nét đẹp của tâm hồn kẻ sĩ thanh cao “Như nhật trung thiên”vằng vặc.Đây là tác phẩmtiêu biểu cho phong cách thơ triết lí của Nguyễn Bỉnh Khiêm: thiên về nhậnxét, phân tích, khái quát - lối thơ của những nhà tư tưởng lớn.

nhocsga1100 Tại 23-2-2013 21:23:33

phan tich bai tho nhan

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) là người có học vấn uyên thâm. Tuy nhiên khi nhắc đến ông là làm mọi người phải nghĩ đến việc , lúc ông cònlàm quan ông đã từng dâng sớ vạch tội và xin chém đầu mười tám lộng thần nhưngđã không thành công nên ông đã cáo quan về quê . Do học trò của ông đều là nhữngngười nổi tiếng nên được gọi là Tuyết Giang Phu Tử . Ông là người có học vấnuyên thâm ,là nhà thơ lớn của dân tộc . Thơ của ông mang đậm chất triết lí giáohuấn , ngợi ca chí khí của kẻ sĩ ,thú thanh nhàn , đồng thời cũng phê phán nhữngđiều sống trong xã hội . Khi mất ông để lại tập thơ bằng tập viết thơ bằng chữHán là Bạch Vân am thi tập ; tập thơ viết bằng chữ Nôm là Bạch Vân quốc ngữ thivà “ Nhàn” làbài thơ tiêu biểu trong tập thơ Bạch Vân quốc âm thi tập , được viếtbằng thể thất ngôn bát cú đường luật . Bài thơ ca ngợi niềm vui trong cảnh sốngthanh nhàn .Qua đó ta có thể thấy được vẻ đẹp chân chính của ông, nét mộc mạc củalàn quê .
“ Một mai một cuốc , một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
Ta dại , ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người dến chốn lao xao
Thu ăn năng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao
Rượu đến cội cay ta sẽ uống
Nhìn xem phú quí tựa chiêm bao.”
Hai câu đề đã khắc họa dược như thế nào 1 cuộc sốngnhàn rỗi
“ Một mai , một cuốc, một cần câu
Thơ thẫn dầu ai vui thú nào.....”
Ở câu thơ đầu câu thơ đã khắc họa hình ảnh 1 ônglão nông dân sống thảnh thơi .Bên cạnh đó tác giả còn dùng biện pháp điệp số từ“ một “thêm vào là 1 số công cụ quen thuộc của nhà nông nhằm khơi gợi trước mắtngười đọc 1 cuộc sống rất tao nhãn và gần gũi nhưng không phải ai mún là có . Từ“ thơ thẩn” trong câu hai lại khắc họa dáng vẻ của 1 người đang ngồi ung dungchậm rãi và khoan thai .Đặt hình ảnh ấy vào cuộc đời của tác giả ta có thể thấyđược lúc nhàn rỗi nhất của ông chính là lúc ông cáo ông về ở ẩn . Và từ “ vuithứ nào” cũng 1 lần nữa nói lên đề tài của bài thơ là về cảnh nhàn dẫu cho aicó ban chen vòng danh lợi nhưng tác giả vẫn thư thái . Hai câu thơ đầu đã khôngchỉ giới thiệu được đề tài mà còn khắc họa tư thái ung dung nhàn hạ , tâm trangthoải mái nhẹ nhàng vui thú điền viên.
“..... Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người dến chốn lao sao......”
Hai câu thực của bài thơ ý tác giả muốn nhắm đếncảnh nhàn và sử dụng các từ đối nhau như “ ta “_ “ người” ; “ dại” _ “ khôn” ;“ nơi vắng vẻ”_ “ chốn lao xao” từ 1 loạt những từ đối lập đó đã thể hiện đượcquan niệm sống của tác giả . Nhân vật trữ tình đã chủ động tìm đến nơi vắng vẻđến với chốn thôn quê sống cuộc sống thanh nhàn mặc cho bao người tìm chốn “phồnhoa đô hội” . hai câu thơ đã đưa ra được hai lối sống độc lập hoàn toàn tráingược nhau. Tác giả tự nhận mình là “ dại” vì đã theo đuổi cuộc sống thanh đạmthoát khỏi vòng danh lợi để giữ cho tâm hồn được thanh nhàn .Vậy lối sống củaNBK có phải là lối sống xa đời và trốn tránh trách nhiệm ?” Điều đó tất nhiênlà không vì hãy đặt bài thơ vào hoàn cảnh sáng tác chỉ có thể làm như vậy mớicó thể giữ được cốt cách thanh cao của mình . Do NBK có hoài bảo muốn giúp vualàm cho trăm dân ấm no hạnh phúc nhưng triều đình lúc đó đang tranh giành quyềnlực , nhân dân đói khổ tất cả các ước mơ hoài bảo của ông không được xét tới .Vậynên NBK rời bỏ “ chốn lao xao “ là điều đáng trân trọng .
“ ..... Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao.........”
Hai câu luận đã dùng biện pháp liệt kê những đồăn quanh năm có sẵn trong tự nhiên . Mùa nào thức ăn nấy , mùa thu thường cómăng tre và măng trúc quanh nhà , mùa đông khi vạn vật khó đâm chồi thì có giáthay . Câu thơ “ xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao” gợi cho ta cuộc sống sinh hoạt nơidân dã .Qua đó ta có thể cảm nhận được tác giả đã sống rất thanh thản , hòa hợpvới thiên nhiên tận hưởng mọi vẻ đẹp vốn có của đất trời mà không bon chen ,tranh giành .Đăt bài thơ vào hoàn cảnh lúc bấy giờ thì lối sống của NBK thể hiệnđược vẻ đẹp của tâm hồn thanh cao đó là lối sống tích cực thể hiện rõ thái độ củaBạch Vân cư sĩ .
“....... Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quí tựa chiêm bao.”
Hai câu luận đã thể hiện dược cái nhìn của 1 nhàtrí tuệ lớn , có tính triết lí sâu sắc , vận dụng ý tượng sáng tạo của điệntích Thuần Vu . Đối với NBK phú quí không phải là 1 giấc chiêm bao vì ông đã từngđỗ Trạng Nguyên , giữ nhiều chức vụ to lớn của triều đình nên cuộc sống phú quívinh hoa ông đã từng đi qua nhưng ông đã không xem nó là mục đích sống của ông.Mà ông đã xem đó chỉ là 1 giấc chiêm bao không có thực và ông đã tìm đến với cuộcsống thanh thản để luôn giữ được cốt cách thanh cao của mình .
trang: [1]
Phiên bản đầy đủ: phan tich bai tho nhan