Tieulinhnhi tham khảo hai bài làm này thử xem, hai bài này nội dung cũng liên quan:
Đề: Vẻ đẹp chủ nghĩa anh hùng cách mạng qua nhân vật Tnú và nhân vật ViệtBài làm Trong bài “Nhận đường”, Nguyễn Đình Thi có viết: “Văn nghệ phụng sự kháng chiến nhưng chính kháng chiến đem đến cho văn nghệ một sức sống mới. Sắt lửa mặt trận đang đúc nên văn nghệ mới của chúng ta”. Từ chiến trường đầy ác liệt, từ những nỗi đau chiến tranh chất chứa đầy máu và cả sự hy sinh , những áng văn bất hủ đã được tạo nên. “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành và “ Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi đã ra đời trong hoàn cảnh ấy. Dẫu hai tác phẩm ấy được viết theo hai phong cách khác nhau nhưng cả hai nhà văn đã gặp nhau ở nơi hội tụ của mọi ánh sáng văn chương chân chính mọi thời đó là chủ nghĩa anh hùng cách mạng lớn lao, cao cả, hào hùng. Vẻ đẹp ấy được thể hiện rõ nét nhất qua nhân vật Tnú và nhân vật Việt. Mỗi nhà văn có một sở trường riêng về một đề tài và khi nhắc đến văn học kháng chiến chống Mĩ ta không thể không nhắc đến hai nhà văn tiêu biểu đó là Nguyễn Trung Thành và Nguyễn Thi. Nguyễn Trung Thành sinh năm 1932 ông là nhà văn có sở trường viết về vùng đất Tây Nguyên anh hùng, bất khuất. Nguyễn Thi (1928-1968) tuy là người Bắc nhưng ông lại có cảm tình sâu sắc với mảnh đất Nam Bộ. Chính vì vậy ông đã được coi là nhà văn, con người Nam Bộ kiên cường. Cả hai tác giả đều gắn bó với cuộc kháng chiến chống Mĩ, là những nhà văn chiến sĩ ở hai tuyến đầu máu lửa của Tổ quốc Tác phẩm của họ mang hơi thở nóng hổi của cuộc chiến đấu với những hình tượng nhân vật sinh động, bước vào văn học từ thực tế chiến đấu. Hai truyện ngắn “Rừng xà nu” (1965) và “Những đứa con trong gia đình” (1966) đã phản ánh thật rõ ràng và đậm nét ý chí quyết tâm đánh giặc ngoại xâm của dân tộc ta; lòng căm thù giặc cũng như những phẩm chất anh hùng của người chiến sĩ trong công cuộc đấu tranh để gìn giữ non sông của cha ông ngàn đời. Nhân vật Tnú và Việt trong hai tác phẩm là hai nhân vật tiêu biểu cho tinh thần yêu nước, yêu cách mạng của con người Việt Nam trong kháng chiến. Ở họ mang nhiều phẩm chất tốt đẹp nhưng cao cả và thiêng liêng nhất chính là vẻ đẹp anh hùng cách mạng . Vậy thế nào là chủ nghĩa anh hùng cách mạng ? Đó là sự thể hiện của lòng yêu nước thiết tha, căm thù giặc sâu sắc, tinh thần chiến đấu bất khuất chống lại kẻ thù xâm lược để bảo vệ tổ quốc của con người Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, là sự trung thành với lí tưởng cách mạng được thử thách trong những hòan cảnh khốc liệt, qua đó bộc lộ được vẻ đẹp của phẩm chất anh hùng có tính chất tiêu biểu cho cả dân tộc. Tnú và Việt là sự kết tinh của chủ nghĩa anh hùng cao đẹp ấy. Trước tiên đọc tác phẩm “Rừng xà nu” ta có thể dễ dàng cảm nhận được vẻ đẹp anh hùng rực rỡ ở nhân vật Tnú. Tnú là người con của dân làng Xôman, cha mẹ mất sớm và được dân làng cưu mang, nuôi dưỡng. Cũng như người dân làng “có cái bụng thương núi, thương nước”, Tnú đã sớm có lòng yêu thương nhân dân, làng xóm. Từ tấm lòng này, Trú đã mở rộng thành tình yêu gắn bó trung thành thủy chung sâu nặng với Cách mạng, cán bộ Cách mạng. Bởi ngay từ khi còn là một cậu bé, Tnú được cụ Mết, người gìn giữ và truyền ngọn lửa Cách mạng từ thế hệ này sang thế hệ khác cho hay: “Cán bộ là Đảng. Đảng còn nước non này còn”. Vì vậy ngay từ chặng đầu của cuộc đời, Tnú đã xuất hiện với tư cách của người anh hùng Tây Nguyên thời chống Mỹ. Dù còn nhỏ, Tnú đã sớm tỏ ra gan góc táo bạo, đầy quả cảm như Kim Đồng, Lê Văn Tám, Vừ A Dính… Bất chấp sự vây lùng khủng bố dã man của kẻ thù, chặt đầu những người đi nuôi cán bộ – đầu anh Xút, bà Nhan đang bị chúng treo lủng lẳng đầu bản xóm, Tnú đã cùng với Mai xung phong vào rừng bảo vệ anh Quyết, một cán bộ trung kiên của Đảng. Đây là một công việc vô cùng khó khăn và đầy nguy hiểm nhưng Mai và Tnú đã làm rất tốt để dân làng Xô man mãi tự hào ” Năm năm chưa hề có cán bộ bị giặc bắt hoặc bị giết ở trong rừng”. Tnú còn là một người có phẩm chất chính trực, trong sáng, trung thực, thẳng thắn như cây xà nu. Tnú quyết tâm học cho được cái chữ Cụ Hồ để trở thành cán bộ giỏi thay anh Quyết, nếu không may anh Quyết bị hy sinh. Tnú có cái đầu sáng lạ lùng trong việc tìm đường rừng để đưa thư cho anh Quyết. Nhưng Tnú học chữ hay quên. Bởi vậy, khi học chữ thua Mai, Tnú đã tự trừng phạt cái tội hay quên của mình bằng cách “cầm hòn đá tự đập vào đầu mình máu chảy ròng ròng”. Hành động này có cái gì đó hơi nóng nảy, nông nổi nhưng nó biểu lộ ý chí, quyết tâm sắt đá của một con người có chí khí, vì không học được chữ nên tự trừng phạt mình cho đau cho nhớ mà cố gắng hơn. Làm liên lạc chuyển thư cho anh Quyết, Tnú có cái đầu sáng lạ lùng. Vốn là con người nhanh trí, táo bạo thích mạo hiểm, Tnú không bao giờ đi đường mòn, bị giặc vây các nẻo đường, Tnú leo lên cây cao xé rừng mà đi vượt qua mọi vòng vây. Tnú không vượt qua suối những nơi nước cạn dễ đi mà thường băng qua những con thác hiểm như cưỡi lên lưng con cá kình. Có lần vượt qua thác, chuẩn bị lên bờ thì họng súng đen ngòm đã chĩa vào gáy lạnh ngắt. Tnú kịp nuốt lá thư của anh Quyết vào bụng bảo đảm bí mật. Tnú bị giặc giam cầm ở ngục tù Kontum với biết bao đòn roi, thương tích. Địch tra tấn hỏi “Cộng sản ở đâu?” Tnú đã không ngần ngại đặt tay lên bụng và nói: “Ở đây này!”.Và lưng Tnú lại hằn lên những vết dao chém ngang dọc của kẻ thù. Đúng Tnú là con người rất giàu phẩm chất thủy chung, trung thành với Cách mạng mà bất khuất hiên ngang trước kẻ thù “Uy vũ không thể khuất phục”. Ba năm sau, Tnú vượt ngục trở về trực tiếp lãnh đạo dân làng Xô man đánh giặc. Và Mai, người bạn từ thuở thiếu thời, đã cùng Tnú trưởng thành qua năm tháng đầy thử thách khốc liệt của chiến tranh nay đã là vợ của Tnú. Đứa con trai kháu khỉnh vừa đầy tháng là hoa trái đầu mùa của mối tình thơ mộng và thủy chung ấy. Hạnh phúc gia đình lứa đôi của Tnú đang đẹp như trăng rằm lung linh tỏa sáng cả núi rừng Tây Nguyên. Song kẻ thù tàn bạo dã man đã đập vỡ tổ ấm hạnh phúc của Tnú một cách không tiếc thương. Chúng đã giết vợ con anh bằng cây gậy sắt, hòng uy hiếp tinh thần Cách mạng của Tnú, người cầm đầu, linh hồn của cuộc nổi dậy. Đoạn văn diễn tả sự bất lực của Tnú trước cái chết của vợ con thật bi thương tràn đầy xúc cảm và ấn tượng “Anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay. Anh chồm dậy… bụng anh có lửa đốt. Chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”. Căm thù đau nhói trong tim và bừng cháy trong hai con mắt – một chi tiết thật dữ dội. Tnú nhảy vào giữa đám lính, hai cánh tay như cánh gỗ lim của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai. Nhưng không còn kịp nữa!
Tnú bị bắt, bị trói. Vợ và con chết cả rồi nhưng Tnú không khóc. Anh ghìm nén nỗi đau, cố gắng vượt qua bi kịch cá nhân để tiếp tục sống và chiến đấu. Trước cái chết cận kề, Tnú không hề run sợ mà anh cảm thấy mình thật bình thản. Anh nghĩ “Đứa con chết rồi. Mai chắc cũng đã chết. Mình rồi cũng chết thôi”. Nhưng Tnú không sợ, điều làm Tnú day dứt và băn khoăn nhất chính là không sống được đến ngày cùng dân làng Xô man đánh giặc, rồi khi có lệnh của Đảng cho đánh ai sẽ lãnh đạo dân làng Xô man ? Tnú hoàn toàn không nghĩ đến mình nữa, Tnú đã đặt cái chung, cái nhiệm vụ lên trên bi kịch của mình. Đó là thái độ biến đau thương thành hành động. Giặc dùng giẻ tẩm nhựa xà nu để đốt mười đầu ngón tay của Tnú. Chúng định dùng lửa để thiêu rụi ý chí đấu tranh của dân làng Xô man. Nhưng chúng đã nhầm. Chúng đã vô tình thắp lên ngọn lửa đồng khởi, ngọn lửa đấu tranh của dân làng Xô man. Một ngón, hai ngón rồi ba bốn ngón của Tnú bốc cháy. Không gì đượm băng lửa Xà nu. Mười ngón tay của Tnú nhanh chóng thành mười ngọn đuốc sống. Kì lạ thay, người Cộng Sản ấy không hề kêu van, dù “răng anh đã cắn nát môi anh rồi”. Đúng rồi, Tnú không thèm kêu van nhưng Tnú đã thét lên một tiếng “Giết”. Tiếng thét ấy làm rung chuyển núi rừng, làm lay động tâm can con người. Và cộng hưởng cùng tiếng thét ấy là tiếng chân người chạy rầm rập trên nhà Ưng, tiếng cụ Mết ồ ồ “Chém! Chém hết, Giết, giết hết!”, Tiếng thét ấy trở thành ngòi nổ làm bùng cháy cả khối thuốc nổ căm hờn của dân làng Xôman. Trong phút chốc họ đã chứng kiến cảnh : “xác 10 tên giặc nằm ngổn ngang quanh đống lửa.” Cuộc đời bi tráng của Tnú đã làm sáng tỏ một chân lý giản dị mà sâu xa của cuộc sống được cụ Mết truyền dạy cho con cháu: “sau này, tao chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho con cháu: Chúng nó đã cầm súng, mình phải cấm giáo”. Đó là chân lý của Cách mạng được nảy sinh từ mảnh đất Tây Nguyên thấm máu và nước mắt. Đó là một chân lý thật nghiệt ngã nhưng tất yếu: Phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng. Vũ trang chiến đấu là con đường tất yếu tự giải phóng của nhân dân. Câu chuyện về cuộc đời và con đường đi lên của Tnú mang ý nghĩa tiêu biều cho số phận và con đường của các dân tộc Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ. Vẻ đẹp và sức mạnh của Tnú là sự kết tinh vẻ đẹp và sức mạnh của con người Việt Nam nói chung trong thời đại đấu tranh cách mạng. Đến với “những đứa con trong gia đình”, Nguyễn Thi cũng đã khắc học rất thành công vẻ đẹp anh hùng cách mạng sáng ngời của nhân vật Việt. đó là một cậu con trai mới lớn, hồn nhiên, vô tư luôn tranh giành với chị ngay cả trong cuộc sống bình thường lẫn khi đi đánh giặc. đêm trước ngày đi bộ đội trong khi Chiến bàn bạc chuyện gia đình và nói với em những lời trang nghiêm thì Việt lúc “ lăn kềnh ra ván cười khì khì” lúc lại rình “chụp một con đom đóm úp trong lòng bàn tay” và cuối cùng “ngủ quên lúc nào không biết”. Đứa con trai ngây thơ ấy còn là một người con, một người cháu, một người em, một người đồng đội giàu tình cảm và sống rất tình nghĩa. Vốn mồ côi cha mẹ, chị Hai ở xa, đứa em út còn nhỏ, tình cảm thương yêu của Việt đối với chị thật sâu đậm. sau khi cùng ghi tên vào bộ đội, sắ xếp việc nhà xong Việt và chiến cùng khiêng bàn thờ má gởi chú Năm: “ Việt khiêng trước.Chị Chiến khiêng bịch bịch phía sau. Nghe tiếng chân chị, Việt thấy thương chị lạ. Lần đầu tiên Việt mới thầy lòng mình rõ như thế”. Ngoài tình thương chị Việt còn rất thương mến chú Năm. Tình cảm đó hình thành từ những ngày Việt còn nhỏ “ Việt thương chú Năm vì hồi đó chú hay bênh Việt. Mỗi khi cất giọng hò, chú làm như Việt chính là nơi cụ thể để chú gửi gắm những câu hò đó”. Trong lúc Việt bị thương hình ảnh của cha mẹ thân yêu luôn chập chờn ẩn hiện trong hồi ức của Việt với bao kỉ niệm chua xót lẫn ngọt ngào “dường như cả cuộc đời vất vả của má, mọi ý nghĩ lặng lẽ trong đêm của má, cả những hiểm nguy gian lao của má đã trải qua một cách không hề sợ hãi, tất cả đều gom lại và dồn lại vào trong ý nghĩa cuối cùng này: “để má ráng nuôi bây lớn coi bây có làm được gì cho cha mày vui không?”. Nhưng có lẽ đẹp đẽ hơn cả ở Việt-làm nên vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng chính là tinh thần chiến đấu quả cảm , kiên cường. Việt không chỉ là một con người giàu lòng yêu thương mà còn là một chiến sĩ giải phóng quân dũng cảm, mang trong mình dòng máu gia truyền của những con người gan góc không bao giờ khuất phục trước sự tàn bạo. Việt đã chiến đấu bằng tất cả sức mạnh lần thể chất tinh thần, bằng ý chí bất khuất thừa hưởng từ một gia đình cách mạng. Ông nội , chú Năm, ba Việt đều tham gia kháng chiến. Cha bị chặt đầu, mẹ bị trúng pháo của giặc .. những hình ảnh đó mãi in sâu trong tâm trí Việt. chính mối thù nhà là động lực thúc đẩy hai chị em việt anh dũng chiến đấu. Giữa trận đánh, Việt bị thương nặng. mất liên lạc với đồng đội, trơ trọi một thân, đói khát, mình đầy thương tích, Việt vẫn can đảm chịu đựng. dù lúc tỉnh lúc mê, Việt vẫn ở tư thế sẵn sàng chiến đấu mỗi khi choàng dậy “ Việt day họng sung về hướng đó “ nếu mày đổ quân thì sung tao còn đạn” Việt ngầm bảo bọn địch khi nghe tiếng xe bọc thép của chúng chạy mỗi lúc một gần. Cuối cùng khi đồng đội đã tìm được Việt dù kiệt sức, anh vẫn giữ được tư thế chiến đấu sinh tử với kẻ thù “một ngón tay của cậu vẫn còn nhúc nhích , một viên đạn đã lên nòng và chung quanh cậu dấu xe bọc thép còn nằm ngang dọc” hình ảnh đó đã cho ta thấy tính cách anh hùng của Việt một chàng trai yêu nước ,sẵn sàng chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Một dáng vóc cao cả, phi thường, đáng khâm phục. Có thể nói, xây dựng hình tượng nhân vật Tnú và Việt hai nhà văn đã thể hiện sự trân trọng sâu sắc trước những con người của dân tộc, vì dân tộc. Cùng được sáng tác trong kháng chiến chống Mĩ nên ở hai nhân vật đều có nhiều nét tương đồng trong vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng. Họ là những người con đã kế thừa xuất sắc truyền thống bất khuất của gia đình, của quê hương, của dân tộc: Tnú là người con của làng Xô Man, nơi tất cả người dân đều hướng về cách mạng. Còn Việt sinh ra trong gia đình có truyền thống yêu nứơc, căm thù giặc: Cha là cán bộ cách mạng, má là người phụ nữ Nam Bộ kiên cường trong đấu tranh, hai con tiếp nối lí tưởng của cha mẹ. Họ đã phải chịu nhiều đau thương, mất mát do kẻ thù gây ra, tiêu biểu cho đau thương mất mát của cả dân tộc: Tnú chứng kiến cảnh vợ con bị kẻ thù tra tấn đến chết, bản thân bị giặc đốt mười đầu ngón tay. Việt chứng kiến cái chết của ba má: ba bị chặt đầu, má chết vì đạn giặc. Những đau thương đó đã hun đúc tinh thần chiến đấu, lòng căm thù giặc sâu sắc của con người Việt Nam. Biến đau thương thành sức mạnh chiến đấu cũng là một biểu hiện của chủ nghĩa anh hùng cách mạng: Tnú lên đường đi “lực lượng” dù mỗi ngón tay mất đi một đốt, Việt vào bộ đội, coi việc đánh giặc trả nợ nước thù nhà là lẽ sống. Họ chiến đấu bởi sức mạnh của lòng căm thù giặc, cũng là bởi sức mạnh của tình yêu thương, vì: chỉ có cầm vũ khí đứng lên, ta mới có thể bảo vệ được những gì thiêng liêng nhất, bảo vệ tình yêu và sự sống. Chân lí đó đã được minh chứng qua số phận và con đường cách mạng của những người dân Nam Bộ trong hai tác phẩm trên, chân lí đó cũng được rút ra từ thực tế đau thương mất mát nên nó càng có giá trị, càng phải khắc sâu vào lòng người. Không chỉ vậy ở họ còn mang phẩm chất anh hùng, bất khuất, là những con người Việt Nam kiên trung trong cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm.Tnú từ nhỏ đã gan dạ, đi liên lạc bị giặc bắt được, tra tấn dã man vẫn không khai. Anh vượt ngục trở về, lại là người lãnh đạo thanh niên làng Xô Man chống giặc, bị đốt mười ngón tay vẫn không kêu rên trước mặt kẻ thù à Ở Tnú toát lên vẻ đẹp của người anh hùng trong sử thi Tây Nguyên và vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng thời đại chống Mĩ. Việt bị thương trong trận đánh lại lạc mất đơn vị, vẫn chắc tay súng quyết tâm tiêu diệt kẻ thù. Đối với chị, Việt ngây thơ, nhỏ bé.,còn trước kẻ thù, Việt vụt lớn lên, chững chạc trong tư thế người anh hùng. Có thể nói Tnú và Việt đều đã vượt lên nỗi đau và bi kịch cá nhân để sống có ích cho đất nước. Những đau thương của họ cũng chính là đau thương của dân tộc trong những năm tháng thương đau của chiến tranh. Tinh thần quả cảm, kiên cường của họ cũng chính là tinh thần của cả dân tộc Việt Nam, là biểu hiện cao đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Tuy nhiên, không chỉ có những nét chung độc đáo vẻ đẹp anh hùng cách mạng ở nhân vật Tnú và Việt mà còn mang những nét riêng khác biệt. Việt là một con người được sinh ra và trưởng thành trên miền non nước Nam Bộ vì vậy ở anh có tính chất sôi nổi, bộc trực, trọng nghĩa. Còn Tnú lại hiện lên với hình ảnh “vóc dáng vạm vỡ” chứa trong đó cái mênh mang, hoang dại, trong sạch của núi rừng, ở Tnú nổi bật lên với vẻ đẹp của một con người Tây Nguyên huyền thoại, kỳ vĩ, đậm chất sử thi. Như hai bản anh hùng ca thời đại đánh Mĩ, hai tác phẩm đã khắc sâu được cuộc chiến đấu của dân tộc chống lại kẻ thù xâm lược hết sức ác liệt và gay go. Qua đó tác giả cũng ngợi ca phẩm chất anh hùng của con người Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ, là những con người tiêu biểu cho cộng đồng về lí tưởng và phẩm chất, nhân danh cộng đồng mà chiến đấu hi sinh. Với giọng văn ngợi ca, thấm đẫm cảm hứng lãng mạn cách mạng, chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam thời kỳ chống Mĩ, hai tác phẩm đều được tác giả làm hiện diện trên khắp mọi miền của đất nước. Từ nông thôn đến thành thị, từ miền ngược đến miền xuôi, từ đồng bằng đến miền núi. Tất cả tạo nên một sức mạnh long trời lở đất để nhấn chìm lũ bán nước và quân cướp nước. Qua đó cũng thấy rằng, cuộc đời và sự hi sinh của những con người Việt Nam anh hùng như Tnú và Việt mãi mãi là bản anh hùng ca tuyệt đẹp cho các thế hệ Việt Nam noi theo.
Sưu tầm
Đề: "Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thành, "Những đứa con trong gia đình" của Nguyễn Thi và "Mảnh trăng cuối rừng" của Nguyễn Minh Châu là những truyện ngắn hay, khám phá, ca ngợi vẻ đẹp của con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nướcAnh, chị hãy so sánh để làm rõ những phám phá, sáng tạo riêng của mỗi tác phẩm trong sự thể hiện chủ đề chung của nó. Bài làm: "Yêu biết mấy những con người đi tới Hai cánh tay như hai cánh bay lên Ngực dám đó những phong ba dữ dội Chân đạp bùn không sợ các loại sên!" Hình ảnh những con người Việt Nam ấy đã đi vào thơ ca như một niềm thơ lớn và trở thành phần hồn của mỗi người con đất Việt. Yêu biết mấy hình ảnh người dân quê tôi: cần cù trong lao động, anh hùng trong chiến đấu. Văn thơ thời kỳ kháng chiến chống Mĩ đã dựng lại cả một thời kỳ máu lửa, đi sâu tìm tòi khám phá, ngợi ca vẻ đẹp của con người. Tôi nhớ mãi mãi một Tnú, cụ Mết trong "Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thànn; chị Chiến, anh bộ đội tên Việt trong "Những đứa con trong gia đình" của Nguyễn Thi; và cô Nguyệt - người con gái trẻ tuổi dũng cảm trong "Mảnh trăng cuối rừng" của Nguyễn Minh Châu. Họ là hiện thân của vẻ đẹp con người Việt Nam, của sức sống dân tộc. Năm tháng trôi đi và lịch sử đã bước sang trang mới nhưng những con người ấy vẫn sáng ngời lên nhắc nhở ta về một quãng đường đầy gian khổ, đau thương, lại rất đỗi anh hùng mà đất nước mình đã đi qua. Để rồi mỗi lần đọc lại tôi không khỏi ngỡ ngàng vì người dân mình đẹp quá, dũng cảm; và lòng tôi được như sống lại những ngày còn chiến tranh bom đạn ấy. Đọc "Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thành, "Những đứa con trong gia đình" của Nguyễn Thi, "Mảnh trăng cuối rừng" của Nguyễn Minh Châu, hiện lên một tập thể anh hùng nhiều thế hệ đang ngày đêm chiến đấu với kẻ thù để giữ từng tấc đất, ngôi nhà cho quê hương, đất nước. Viết về đề tài chiến tranh, cả ba nhà văn đề không đi sâu vào miêu tả những đau thương mất mát của dân mình, hay tội ác tày trời của giặc mỹ mà đi vào khám phá, ca ngợi vẻ đẹp của con người Việt Nam trong chiến tranh. Tôi còn nhớ câu nói của một nhà văn nổi tiếng: Con người, tất cả ở con người. Có thể huỷ diệt được sự sống của con người nhưng không thể chiến thắng được nó. Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Thi, Nguyễn Minh Châu viết về con người phải chăng cũng có một lòng tin như thế? Hình ảnh của Tnú, cụ Mết, Việt, chị Chiến, Nguyệt và còn biết bao con người nữa hiện ra trong cảnh sống chết từng giây, mưa bom bão đạn mà vẫn hiên ngang, sáng lên mốt vẻ đẹp phẩm chất lại thường. Họ là kết tinh của vẻ đẹp dân tộc, sức sống dân tộc. Những con người yêu nước thiết tha, chiến đấu quả cảm, quên mình vì tổ quốc ấy lại rất đỗi giản dị, sáng trong, gắn bó với từng làng, bản, thôn xóm. Bên cạnh phẩm chất anh hùng, Nguyệt trong "Mảnh trăng cuối rừng" còn sáng lên một tình yêu thuỷ chung, son sắc, đầy màu sắc lãng mạn. Các tác phẩm thời kỳ này đề đi vào khắc họa phẩm chất đẹp đẽ của con người với giọng điệu ca ngợi, hào hùng, vang vọng không khí sử thì hoành cháng. Ba tác phẩm đã dựng lên một tập thể anh hùng, nhiều thế hệ giữ hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt, trong đó mỗi một nhân vật đều có một vẻ đẹp riêng, một tâm hồn, một cái "tôi' riêng hoà chung với cái "ta" rộng lớn ấy. "Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thành là một truyện ngắn xúc động, hào hùng về cuộc chiến tranh anh dũng của dân tộc Xô Man. Nhà văn đã đi sâu khám phá vẻ đẹp của những người con Tây Nguyên, những con người cả đời gắn bó với cây xà nu như gắn bó với Đảng, với cách mạng. Con người hiện lên trong trang văn của Nguyễn Trung Thành là một tập thể anh hùng nhiều thế hệ. Trang sử hào hùng cuả Tây Nguyên không phải chỉ một người viết mà là sự nối tiếp, kế tục từ đời nay sang đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Họ đã cùng nhau dựng xây làng bản, dựng xây làng bản của một thời đất nước dựng lên. Nguyễn Trung Thành đã tìm đến miền đất núi rừng đầy đau thương, nhà văn đẫ lắng nghe họ sống để lắng nghe họ sống để ghi lại cái nhịp sống hào hùng, ghị lại vẻ đẹp tâm hồn, bản chất anh hùng của những con người giản dị, mộc mạc mà thiêng liêng cao quý. Nguyễn Trung Thành như đã trở thành người con của Tây Nguyên, của dân làng Xô Man. Khi viết "Rừng xà nu" tựa hồ ông ngợi ca, tự hào về làng mình, về quê hương của mình. Nói đến phong trào đấu tranh của dân làng Xô Man, ta không quên hình ảnh anh Quyết. Anh là cán bộ của Đảng, là người đã nhen nhóm phong trào cách mạng cho cộng đồng dân làng Xô Man. Tnú còn nhớ như in lời của anh: " Sau này nếu Mĩ - Diệm giết anh, Tnú phải làm cán bộ thay anh". Anh chính là ngọn lửa đấu tranh nóng bỏng lòng căm thù. Anh là người đã truyền sức mạnh, niềm tin cho Tnú, cho Mai..., Anh là một người chiến sĩ dũng cảm, anh hùng. Nếu anh Quyết là hiện thân của lớp trẻ, của Đảng thì hình ảnh của cụ Mết lại sáng lên trong truyện ngắn như một trụ cột của dân làng Xô Man. Chẳng những vậy mà sau này, Nguyễn Trung Thành đã ghi lại trong hồ ký, đại ý: Ông là cội nguồn, là Tây Nguyên của thời đất nước đứng lên còn trường tồn đến hôm nay. Ông như lịch sử trùm nhưng không che lấp đi sự nối tiếp mãnh liệt, ngày càng mãnh liệt hơn, sành sỏi và tự giác hơn. Một lời nói của cụ Mết như lời nói của sông núi, là lời nói của cả dân tộc. Ông cụ là cội nguồn của dân làng Xô Man, là người đã lãnh đạo dân làng đánh giặc: "Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo". Cụ hiện thân cho truyền thống, nét đẹp từ ngàn xưa của dân làng. Cụ rất ít khen tốt giỏi mà chỉ nói "được", cụ truyền lại sức mạnh, răn dạy con cháu: "Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi, bây còn sống phải nhớ nói lại cho con cháu". Hình ảnh cụ Mết là hình của một già làng suốt đời gắn bó với Tây Nguyên, chiến đấu bảo vệ muôn làng. Cụ tự hào về cây xà nu, đố nó giết hết rừng xà nu đất này. Đẹp thay hình ảnh của một ông cụ "râu bây giờ đã dài đến ngực vẫn đen bóng, mắt vẫn sáng và xếch ngược" hiển hiện giữa rừng núi Tây Nguyên. Và hình ảnh cụ cùng lớp thanh niên trong làng cầm giáo mác cứu Tnú cho thấy cụ là hiện thân của sức sống dân tộc, tâm hồn dân tộc. Nguyễn Trung Thành ngợi ca vẻ đẹp Tây Nguyên bởi vẻ đẹp tâm hồn cụ là vẻ đẹp của ngày xưa, trường tồn và mãnh liệt cho đến hôm nay. Viết về 'Rừng xà nu", viết về những con người anh hùng quả cảm, nhà văn đã khắc học hình ảnh nhân vật trung tâm: Tnú. Tnú là một thanh niên trẻ, anh dũng, gan dạn với một cuộc đời đầy bi kịch, đau thương nhưng anh đã vượt lên trên tất cả để sống, để chiến đấu và vẻ đẹp Tnú là vẻ đẹp của một con người chiến thắng,của một chiến sĩ anh hùng. Phẩm chất anh hùng của Tnú được bộc lộ từ khi anh còn là một cậu bé cùng Mai đưa thư, tiếp tế cho cán bộ. Tnú yêu cách mạng, yêu Đảng. Một lần bị giặc bắt, anh quyết không khai mặc dù bị tra tấn dã man. Lòng căm thù giặc đã trở thành dòng máu chảy trong lòng anh từ lúc làng Xô Man còn chưa biết vùng dậy đánh giặc. Tnú lớn lên trong sự yêu thương của dân làng, trong mối hận phải trả thù và ước ao được làm cán bộ. Anh trở thành anh thanh niên xung phong của dân làng Xô Man. Cuộc đời của Tnú là cuộc đời đầy cay đắng, bất hạnh. Một lần giặc đã bắt mẹ con Mai (vợ Tnú) để buộc anh phải ra hàng. Không kìm được lòng mình, khi nhìn thấy Mai cùng đứa con bị đánh, anh lao ra nhưng không cứu được hai mẹ con Mai. Rồi Mai chết, đứa con cũng chết, Tnú chắc cũng sắp chết. Tnú chỉ nghĩ " Ai sẽ làm cán bộ lãnh đạo dân làng Xô Man đánh giặc?" và chỉ tiếc không sống được đến ngày cùng dân làng nổi đậy. Chao ôi! Đến lúc cái chết cận kề anh cũng chẳng nghĩ cho bản thân mình. Tnú chỉ đau đáu một nỗi niềm với cách mạng, với Đảng. Rồi khi mười đầu ngón tay anh cháy như mười ngọn đuốc, anh cũng khong kêu van, anh thấy lửa cháy trong bụng, thấy máu đã mặn chát nơi đầu lưỡi "răng anh như đã cắn nán môi anh rồi". Tnú hi sinh tất cả, quên mình vì đồng loại. Bàn tay của anh là bàn tay của người anh hùng, bàn tay ấy kể với ta về số phận một con người đau thương mà không hề chùn bước. Tnú chẳng gục ngã như cây xà nu kia: "Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên". Anh đem theo hình ảnh của Mai, của những tháng ngày đã qua, của hồi ức buồn để bước tiếp trên con đường cách mạng. Tnú là một con người anh hùng, quả cảm, giàu lòng yêu thương. Rồi bé Heng, Dít - tất cả đều mạng cái hồn của dân làng Xô Man. Nguyễn Trung Thành đã ngợi ca vẻ đẹp của con người Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mĩ cứu nước với bản chất anh hùng, quả cảm của cả một cộng đồng vừa anh hùng lại vừa nhân ái trong công cuộc bảo vệ quê hương. Tôi còn nhớ câu thơ: " Đứng vững chãi bốn ngàn năm sừng sững Lưng đeo gươm tay mền mại bút hoa. Trong và thực, sáng hai bờ suy tưởng Sống nhân ái mà nhân ái chan hoà" Và nếu như Nguyễn Trung Thành khám phá vẻ đẹp ở những người con của miền rừng núi Tây Nguyên thì Nguyễn Thi trong "Những đứa con trong gia đình" lại phát hiện vẻ đẹp con người ở vùng nông thôn Nam Bộ. Và nếu như phẩm chất anh hùng trong "Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thành bộc lộ qua tập thể của dân làng Xô Man thì bản chất anh hùng trong chuyện ngắn Nguyễn Thi lại bộc lộ qua bối cảnh gia đình. Nhân vật chính trong truyện là Việt và Chiến. Cả hai chị em đều phải sống trong sự thiếu thốn tình thương khi ba vá má bị giặc sát hại. Việt và Chiến tranh nhau đi bộ đội, nỗi đau và sự thiếu hụt tình cảm gia đình đã hun đúc cho cả hai chị em lòng căm thù giặc sâu sắc. Việt là anh bộ đội gan dạ, dũng cảm, tuy bị thương nhưng vẫn cố tìm và quyết đi cùng đồng đội. Trên mặt trận chiến đấu, Việt là một anh lính cụ Hồ, anh hùng quả cảm, lập chiến công và vẫn khiêm tốn không muốn báo cáo cho chị biết. Chi mong mỏi, khao khát được đánh giặc để trả thù cho ba má. Nguyễn Thi đã ca ngợi vẻ đẹp, ca ngợi phẩm chất anh hùng của những đứa con trong gia đình tuy nhỏ tuổi mà vẫn nặng lòng với cách mạng, sãn sàng hi sinh thân mình vì sự nghiệp cứu nước. Bản chất anh hùng của con người Việt Nam có ở mọi thế hệ, mọi dân tộc, tựa như đã trở thành dòng máu ngầm chảy ở mỗi một con người đất Việt. Chiến và Việt là hình ảnh của lớp trẻ hăng hái, dũng cảm trên bước đường chiến đấu gian khổ khốc liệt của quê hương. Họ tiêu biểu cho sức trẻ có thể làm đổi thay lịch sử và ghi thêm trang mới. Nguyễn Thi đã phát hiện vẻ đẹp anh dũng của con người Việt Nam nhưng chưa đủ, nhà văn còn tìm thấy ẩm sâu bên trong những cong người gan góc, quả cảm ấy là cả một tình yêu thương lớn lao, tình yêu thương gia đình. Việt tuy đã trở thành một anh bộ đội nhưng vẫn ngây thơ, trẻ con như cậu bé thủa nào. Đoạn hai chị em khiêng bàn thờ bàn thờ ba má sang nhà chú Năm gửi để đi bộ đội thật cảm động, nó để lại trong lòng ta biết bao rung động, tình cảm ngọt ngào:"Nào, đưa ba má sang ở tạm bên nhà chú, chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má". Câu văn như nghẹn ngào mà lại chứa chan biết bao sự quyết tâm của chị em Chiến và Việt. Việt cảm nhận rõ gánh nặng đang đè lên vai mình, lần đầu tiên Việt cảm nhận lòng mình rõ như thế. Và Việt thấy thương chị. Con người Việt Nam trong chiến tranh đâu chỉ biết chiến đấu mà còn biết yêu thương. Họ đã vượt lên trên lỗi đau cá nhân để chiến đấu vì nỗi đau đồng loại. Hình ảnh của Chiến và Việt hiện lên trong trang viết của Nguyễn Thi thật xúc động, neo lại trong tâm hồn ta khiến ta vừa ngạc nhiên vừa ngỡ ngàng vì vẻ đẹp của con người Việt Nam một thuở. Không đi sâu vào đề tài chiến tranh, không miêu tả nhiều về cuộc chiến đấu anh dũng của dân tộc, truyện ngắn "Mánh trăng cuối rừng" của Nguyễn Minh Châu đã tìm những hạt ngọc còn ẩn sâu trong cuộc sống. Nhà văn đã viết về đề tài tình yêu trên nền của chiến tranh bom đạn. Đọc "Mảnh trăng cuối rừng' ta bồi hồi tự hỏi: "Và nơi đâu trên trái đât này Người vẫn ngọt ngào qua muôn nỗi đắng cay. Sống chết từng giây, mưa bom bão đạn Lòng nóng bỏng căm thù vẫn mát tình bạn" Có nơi nào đẹp như nơi này chăng? Và có người dân nơi đâu vừa anh hùng trong chiến đấu, vừa nóng bỏng căm thù lại vẫn mát tươi một tình bạn, một tình yêu, tình đồng đội và tất cả gom lại thành tình yêu quê hương, đất nước? Hiện lên trong "Mảnh trăng cuối rừng" Nguyễn Minh Châu là hình ảnh của Nguyệt. Vẻ đẹp ngoại hình và phấm chất của Nguyệt được khắc hoạ, miêu tả thông qua cái nhìn của Lãm. Nguyệt sống giữa bom đạn mà bom đạn giội xuống cũng không hề đứt, không thể nào tàn phá được ư? Nguyệt có một niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống. Hình ảnh Nguyệt hiện lên với " đôi gót chân hồng hồng, sạch sẽ, đôi dép cao su cũng sạch sẽ" ở đâu tác phẩm đã gây cho người đọc biết bao yêu mến. Nguyệt có vẻ đẹp dịu dàng, "mát mẻ như sương núi" toả ra từ nét mặt, dáng người mảnh dẻ. Nguyệt còn là một cô gái dũng cảm, gan dạ khi giúp Lãm vượt qua quãng đường khó. Lời nói cứng cỏi " Anh bị thương thì xe cũng mất, anh cứ nấp đó" cùng hình ảnh "Nguyệt nhìn vết thương, cười khuôn mặt hơi tái nhưng vẫn tươi tỉnh và xinh đẹp" đã làm Lãm "dấy lên tình yêu Nguyệt gần như mê muội lẫn cảm phục" và còn in đậm mãi trong lòng độc giả hình ảnh một cô gái trẻ tuổi, gan góc thông minh được Nguyễn Minh Châu khắc học với giọng điệu ca ngợi trân trọng. Nhà văn đã tìm thấy ở Nguyệt hiện thân của sức trẻ - một sức sống, sức chống chịu phi thường. Nguyệt hiện lên trang viết giữa khung cảnh chiến tranh như mọt mảnh trăng non đầu tháng, sáng trong, dịu hiền và luôn ẩn dấu một vẻ đẹp khiến ta phải tìm kiếm. Thế nhưng nguyễn Minh Châu không chỉ miêu tả phẩm chất anh hùng của Nguyệt mà còn khắc họa được vẻ đẹp lãng mạn của tình yêu, sức sống lãng mạn của tình yêu, sức sống mãnh liệt và niềm tin bất diệt của cô gái và cuộc sống. Nguyệt yêu Lãm mà chưa hề biết mặt, chưa hề thư từ mà chỉ qua lời của chị Tính. Cô nguyện chờ Lãm, mặc cho đôi khi Lãm phải ngạc nhiên vì "cái sợ chỉ xanh óng ánh" , phải thần thán khi biết Nguyệt vẫn một lòng chờ mình. Không dần dần được khám phá soi tỏ. Trong chiến tranh người ta không chỉ biết chiến đấu mà còn sáng lên một tình yêu thuỷ chung son sắc. Nếu Nguyệt chỉ thông minh, gan dạ, dũng cảm thì cô cũng chỉ như biết bao những cô gái thanh niên xung phong khác. Nguyễn Minh châu đã phát hiện ra vẻ đẹp tiềm ẩn, tưởng như mỏng manh giữa chiến tranh, bom đạn của người con gái ấy. Nguyệt sáng lên trong trang viết của ông hoà cùng ánh trăng, và văn Nguyễn Minh Châu cũng sáng lên trong lòng chúng ta bởi sức sống mãnh liệt của con người. Vẻ đẹp tâm hồn của Nguyệt khiến ta tin yêu con người,, kỳ vọng vào tương lai. Nguyễn Minh châu đã tìm thấy hạt ngọc nơi cuối rừng, hạt ngọc giữa thời rực lửa và cất lên khúc ca ngơi ca về con người, về vẻ đẹp con người Việt Nam hoà chung với khúc ca bất diệt, đầy tự hào của văn học thời kỳ chống Mĩ cứu nước. "Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thành, "Những đứa con trong gia đình" của Nguyễn Thi, "Mảnh trăng cuối rừng" của Nguyễn Minh Châu là những tượng đài lộng lẫy về vẻ đẹp của con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đầy gian khổ thử thách mà rất đỗi anh hùng, sức sống mãnh liệt và vẻ đẹp của con người thời chiến với giọng điệu ngợi ca, hào hùng nhưng ở mỗi tác phẩm ta đều bắt gặp một cách khám phá sáng tạo riêng. Nếu như với "Rừng xà nu" Nguyễn Trung Thành đã dựng lên một tập thể anh hùng với hình ảnh cây xà nu ham ánh sáng, có sức sống dẻo dai thì Nguyễn Minh Châu lại khắc hoạ hình ảnh mẳng trăng non cuối rừng để làm sáng lên vẻ đẹp của Nguyệt. Nếu như 'Rừng xà nu" và "Những đứa con trong gia đình" đậm không khí sử thi, âm vang trầm hùng, bút pháp hoàng tráng, đố sộ thì "Mảnh trăng cuốc rừng" lại đến với lòng ta bằng một giọng điệu thiết tha, ngọt ngào, giàu màu sắc lãng mạn. Ba tác phẩm đi vào những khía cạnh khác nhau của đời sông kháng chiến, nhân vật hiện lên từ những khung cảnh, hoàn cảnh khác nhau và bút pháp khắc hoạ cũng mang tính độc đáo, cá biệt nhưng đều góp phần vào tiếng nói chung của dân tộc, tiếng nói phám phá ngợi ca vẻ đẹp của con người Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Năm tháng trôi đi và lịch sử không ngừng biết động, "Rừng xà nu", "Những đứa con trong gia đình", "Mảnh trăng cuối rừng" mãi là những bông hoa không tuổi tựa mùa xuân không ngày tháng, đã ghi lại cái quá khứ hào hùng, sôi động của đất nước mình một thuở. Vẻ đẹp của con người Việt Nam đã làm nên cái hồn của cả dân tộc và góp phần làm cho tác phẩm sống mãi với thời gian. Văn học thời kỳ kháng chiến chống Mĩ cứu nước đã bắt được cái nhịp sống của dân tộc, đã ngợi ca sức sống và vẻ đẹp của con người. Giờ lật lại, chúng ta không khỏi tự hào, xúc động về những năm tháng đất nước mình đã đi qua, về vẻ đẹp muôn đời của con người đất Việt. Và ta mãi cất lên những bài ca không bao giờ quên - bài ca viết về quê hương, viết về con người bởi tự hào biết mấy hai tiếng: Việt Nam.
Vũ Trúc Hà
Trường THPT chuyên Chu Văn An - Lạng Sơn Bài đạt giải nhất
|